Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập làm văn.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
2. Linh vực áp dụng sáng kiến: Lớp 5A
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thứ :Năm học 2019-2020.
4. Mô tả bản chất của sáng kiến
4.1 Tình trạng của giải pháp đã biết:
a. Ưu điểm:
- Trong môn Tiếng Việt ở tiểu học, phân môn Tập làm văn là khó học nhất. Nó tổng hợp từ phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện nên rèn cả 4 kĩ năng nghe - nói - viết - đọc. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển những kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo. Các kiến thức về ngôn ngữ, văn học, văn hóa, tự nhiên và xã hội có thể tiếp thu qua lời giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy, những tư tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự hình thành trong thực tế. Đó là lấy học sinh làm trung tâm, tổ chức cho các em lập “Sổ tay văn học” nhằm sưu tầm văn, viết văn để các em có tài liệu và hứng thú khi làm văn.
Bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, các em còn cần tích lũy cả vốn hiểu biết về văn học thông qua việc đọc sách thường xuyên. Hầu hết các nhà văn hồi nhỏ, các bạn học sinh giỏi môn Tiếng Việt ở tiểu học đều chăm đọc sách, đọc sách đến say mê. Mỗi cuốn sách có biết bao nhiêu điều bổ ích và lí thú. Nó giúp ta mở rộng tầm nhìn cuộc sống, khơi sâu những suy nghĩ và cảm xúc, góp phần khơi dậy năng lực cảm thụ văn học ở mỗi chúng ta. Từ đó các em sẽ viết văn tốt hơn.
b. Nhược điểm:
+ Qua chấm một vài bài văn tôi nhận thấy:Các em dùng từ ngữ không chính xác, dùng từ địa phương quá nhiều.
+ Câu văn viết lủng củng, diễn đạt vụng về.
+ Bố cục bài văn không rõ ràng.
+Khi viết văn chưa dùng từ gơi tả,gợi cảm, viết văn chưa sử dụng nghệ thuật nhân hóa,so sánh.
Kết quả điểm kiểm tra giữa kì I, tôi nhận thấy lớp tôi số lượng học sinh chưa hoàn thành phân môn Tập làm văn rất nhiều. Trong đó điểm của môn Tập làm văn ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng môn Tiếng việt.
Phân môn | Điểm kiểm tra giữa kì I | |||||||
Tập làm văn | Điểm 7-8 | Điểm 5- 6 | Điểm 3-4 | Điểm trên TB | ||||
SL | TL | SL | TL | SL | TL | SL | TL | |
24 HS | 6 | 25 % | 7 | 29,2 | 11 | 45,8 | 13 | 54,2 |
4.2 Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm của giải pháp đã biết:
Trước thực trạng của lớp tôi như vậy, tôi vô cùng băn khoăn lo lắng. Bởi học sinh lớp tôi có cuộc sống còn khó khăn, nhiều gia đình chưa thực sự chú trọng đến việc học của con em. Học sinh chưa tiếp xúc với sách, báo.thơ ca …, nhiều em về nhà phải phụ giúp ba mẹ làm 1 số công việc. Thời gian học của các em còn hạn chế. Các em chưa xác định được mục tiêu học tập cũng như vai trò, nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn. Phần lớn các em dùng từ ngữ chưa chính xác, dùng từ địa phương quá nhiều. Câu văn viết lủng củng, câu cụt,câu què, diễn đạt vụng về. Bố cục bài văn không rõ ràng
-Tôi bèn suy nghĩ và tìm ra vài biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn -Lớp 5 để khắc phục những hạn chế này.
*Sau đây là những nội dung cải tiến sáng tạo của bản thân:
1.Trước hết phải tìm hiểu thực tế để phân hóa đối tượng.
2.Giúp học sinh hiểu yêu cầu của phân môn Tập làm văn.
3.Cách dùng từ, đặt câu,cách diễn đạt đoạn văn, bài văn.
Để giúp học sinh học tốt đòi hỏi người giáo viên phải luôn tìm tòi, học hỏi, sưu tầm thơ ca, sách báo, đọc những bài văn hay để học sinh học hỏi thêm, kích thích sự ham hiểu biết của các em.
Mặc khác phải tập cho các em tính tự học,tự rèn,có tinh thần tự quản tốt.Đội ngũ cán sự lớp nhiệt tình, năng nổ.
*Cách thức giải quyết, phương pháp giải quyết những vấn đề nêu trên:
- Gv có kế hoạch cụ thể, chi tiết cho mỗi bài dạy ; nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, gợi ý hướng dẫn chuẩn bị trước ở nhà …
-Lồng ghép các nội dung giải pháp vào trong nội dung từng tiết dạy, trong từng hoạt động dạy cho phù hợp.
- Có ví dụ cụ thể cho từng nội dung của giải pháp để học sinh hiểu ,vận dụng làm bài tốt hơn.Kiểm tra bài làm của học sinh, đánh giá kết quả làm bài ,sửa sai kịp thời hiệu quả để học sinh rút kinh nghiệm.
4.3 Các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải pháp:
-Thư viện nhà trường thường xuyên mở cưa để cung cấp tư liệu, sách báo
Đầy đủ cho các em tham khảo.Cung cấp thêm những thiết bị dạy học.
Giáo viên có đầy đủ số điện thoại phụ huynh trong lớp.
Các phòng học có ti vi màn hình lớn và kết nối mạng Intenet.
4.4 Các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
4.4.1 . “ Sổ tay văn học ”.
- Giáo viên đánh giá HS thực hiện bằng cách sắm quyển sổ cho thật đẹp.
- Giáo viên dặn HS ghi tên sổ là: “ Sổ tay văn học ”, tờ đầu tiên ghi “ Lời hay, ý đẹp” chữ lớn và đẹp.
VD: Tiên học lễ hậu học văn
Có đi mới đến có học mới hay
Học ở trường, học ở sách, học ở lẫn nhau và học ở nhân dân
Trên bước đường thành công không dẫm dấu chân người làm biếng
- Dựa theo nhóm học tập mà thành lập nhóm “ Sưu tầm văn học”. Bầu nhóm trưởng, nhóm phó.
- Giáo viên kiểm tra sổ cụ thể từng em ( có ghi ngày kiểm tra bên góc sổ )
4.4.2 Sưu tầm những “Từ ngữ hay, câu văn hay, đoạn văn hay”
Giáo viên hướng dẫn HS thực hiện
VD: Những từ ngữ hay ( chao ôi!, tuyệt đẹp, đĩnh đạc, huyền ảo, ngộ nghĩnh, tuấn mã, tuấn tú, khôi ngô, bảnh bao, cổ tục, loang lỗ, bất giác, quả nhiên, chạnh lòng, rêu phong, quý phái, dõng dạc...)
Những câu văn hay
Những bông hoa tươi cười trong nắng sớm.
Một biển luá vàng vây quanh em, hương lúa chín thoang thoảng đâu đây.
Bức tranh buổi sớm trên quê hương tôi đẹp quá! đẹp đến mê hồn!
Mặt trời thức dậy từ phía đông, vung tay gieo những tia nắng xuống cánh đồng lúa xanh rờn.
Mùa xuân, sân trường khoác chiếc áo mướt xanh màu lá.
Những đoạn văn hay
+ Cây đa nghìn năm đã gắn liền với thời thơ ấu của chúng tôi. Nói đúng hơn, đó là một tòa cổ kính hơn là cả một thân cây. Chín, mườì đứa bé chúng tôi bắt tay nhau ôm không xuể.Cành cây lớn hơn cột đình. Đỉnh chót vót giữa trời xanh, đến những con quạ đậu trên cao nhìn xuống cũng chẳng rõ. Rễ cây nổi lên mặt đất thành những hình thù quái lạ, như những con rắn hổ mang.
+Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu.Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận.Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn nồng nàn màu đen nhung hiếm quý.
Nguyễn Phan Hách
- Hai tuần đầu tiên, giáo viên phải kiểm tra, nhận xét,tuyên dương từng tổ, nhóm và cá nhân.
- Những tuần sau các nhóm học tập tự kiểm tra bằng cách “ A cho B mượn xem thử ” hoặc B cho A mượn và nhóm trướng sẽ tổng kết vào cuối tuần hoặc đầu tuần (trong giờ Sinh hoạt lớp, Hoạt động tập thể, Hoạt động ngoài giờ lên lớp ) theo yêu cầu của giáo viên đề ra.
- Bạn nào sưu tầm được nhiều câu, bài nhất? Bạn nào có được câu văn, thơ... hay nhất?
- Cuối mỗi tháng, giáo viên tổng kết khen thưởng ( 3 em bằng một vài quyển vở ) để khích lệ tinh thần của các em.
4.4.3 Sưu tầm theo chủ đế.
Giai đoạn này giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào chủ đề chính là sưu tầm văn học để bổ sung cho bài tập làm văn theo từng thể loại của phân môn Tập làm văn lớp 5.
Ví dụ 1: Thể loại văn tả cảnh
- Giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm những câu văn hay miêu tả cảnh sinh hoạt theo từng thời gian ( Ví dụ: cảnh buổi sáng, buổi chiều, buổi tối hay đêm trăng hoặc mưa, nắng, gió…)
Ví dụ 2:Thể loại văn tả người
-Học sinh phải sưu tầm cho được những câu văn hay tả về hình dáng, tính tình và hoạt động của người, hay cũng sưu tầm những từ ngữ biểu cảm để diễn tả hình dáng, tính tình và hoạt động ( Ví dụ: Khi tả em bé ta tả đôi mắt ti hí, mắt đen láy, mắt tròn xoe, mắt sáng long lanh…hoặc cười kha khả, cười đưa hai cái răng mới nhú trông thật ngộ nghĩnh, cười tủm tỉm với hai má núm đồng tiền trông thật đáng yêu…Đi chập chững, làm trò hề,…
Ví dụ 3: Thể loại văn kể chuyện
Học sinh phải sưu tầm những câu chuyện hay. Viết các câu văn hay để kể, tả được:
* Kể tên nhân vật lịch sử trong truyện mà em yêu thích.
* Kể lại hành động nhân vật.
* Tả ngoại hình của nhân vật.
* Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật.
* Mượn lời của nhân vật đóng vai để kể.
Ví dụ 4: Thể loại văn miêu tả đồ vật
Học sinh sưu tầm cho được những câu văn hay,có sử dụng các biện pháp tu từ khi miêu tả, phải có tình cảm và gần gũi với đồ vật như tả người vậy. (VD như: Mỗi lần đến ngày lễ gì, em cũng mua quà tặng cho búp bê nào là bộ váy đẹp, vòng đeo tay, dây chuyền, giày dép, cài tóc,....Đông đến, em may cho búp bê những chiếc áo ấm rất đẹp.Tối nào cũng ôm búp bê ngủ trong lòng.)
Ví dụ 5: Thể loại văn miêu tả cây cối
Giáo viên nhắc nhở học sinh cần chú ý khi sưu tầm miêu tả cây cối có 5 đặc điểm sau:
- Cây bóng mát
- Cây ăn quả
- Cây ra hoa
- Cây ra
- Cây giàn leo
Ví dụ 6: Thể loại văn miêu tả con vật
Học sinh sưu tầm những câu văn hay tả về hình dáng, hoạt động của con vật, hay cũng có thế sưu tầm những từ ngữ biểu cảm để diễn tả hình dáng, hoạt động (Tả đôi mắt ti hí, mắt tròn xoe, mắt đỏ gay, mắt đen lay\láy, ...hoặc sưởi nắng, tắm nắng, nô đùa, vờn bóng, ...)
4.4.4 Sưu tầm và tập viết văn
- Song song với việc sưu tầm văn học theo chủ đề tập làm văn :
+ Giáo viên gợi ý học sinh sưu tầm thêm các câu văn mà tác giả đã sử dụng các biện pháp tu từ như: liên tưởng, so sánh, nhân hóa.v.v.( học sinh thấy hứng thú, việc sưu tầm thêm hấp dẫn).
Ví dụ: Những câu văn so sánh
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
CA DAO
Trường Sơn:chí lớn ông cha
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào
LÊ ANH XUÂN
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
TỐ HỮU
-Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái ngọt của mật ong già hạn.
- Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi.
Những câu văn nhân hóa
- Búp ngô non núp trong cuống lá.
- Xuân đến, cây sồi say sưa, ngây ngất, khẽ đung đưa trong nắng chiều.
- Gà ông Bảy Hóa hay tán tỉnh láo khoét và trêu chọc bọn gà mái.
Bên cạnh cho các em thử tập viết 1 đoạn văn ngắn có sử dụng biện pháp nhân hóa như: “ Tâm sự của cái trống khi nghỉ hè”, “ Cỏ và lúa cải nhau”
Ví dụ: “ Tâm sự của cái trống khi nghỉ hè”
Thế là mùa hè đã đến, ngoài sân trường hoa phượng nở đỏ rực. Tiếng ve sầu bắt đầu kêu râm ran. Âm thanh của tôi không còn vang dội nữa. Giờ đây, các bạn học sinh xếp trang vở kết thúc một năm học.Tôi trở về với dáng vẻ trầm tư, buồn rầu nằm im lìm trên cái giá lạnh lẽo cô đơn trong phòng bảo vệ.Nhìn sân trường vắng bóng nô đùa của học sinh ngày nào.Ôi! thật buồn làm sao! Tôi mong thời gian ba tháng hè trôi qua thật nhanh để mùa tựu trường quay trở lại. Tôi được gặp lại bạn bè, thầy cô sau những ngày buồn tê tái.
( Bài học sinh làm –Giáo viên sửa)
“ Cỏ và lúa cải nhau”
Trên cánh đồng lúa vàng óng, gió thổi mát rượi. Chị lúa thả mái tóc mượt mà cười hả hê trong gió. Chị nói: “Nhà nông năm nay gạo thóc đầy bồ.” Cô cỏ bỉu môi cười “chế nhạo” tưởng mình có giá lắm đó.Chị lúa nói: “ Chứ sao!” tôi rấtcó ích cho mọi nhà , đem đến cho mọi người ấm no hạnh phúc, còn xuất khẩu sang nước ngoài nữa kìa. Chứ cô có ích gì nào? Nói cho tôi nghe thử. Chị đừng có coi thường tôi, không có tôi trâu bò lấy gì mà sinh sống, không có trâu bò cày từng thửa ruộng này để cho họ nhà lúa chị sinh sống. Chị lúa đã hiểu ra thì là vậy. Cuộc tranh cải của nhà họ lúa và họ cỏ đã bắt tay nhau hòa giải.
( Bài học sinh làm –Giáo viên sửa)
- Cuối mỗi tuần giáo viên thu sổ nầy( lần lượt) về nhà kiểm tra, nhận xét tổng kết cuối tháng.
4.5 Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến;
Sau thời gian thực hiện sáng kiến này tôi nhận thấy:
- Số lượng học sinh tham gia sưu tầm rất hào hứng đạt yêu cầu cao( 85% số học sinh tham gia tốt) chỉ còn 15% học sinh chưa có cố gắng trong công việc sưu tầm, hoặc có nhưng còn ít bài, nội dung bài,câu sưu tầm chưa hay, chưa đúng thời gian qui định.
- Về chất lượng: rõ ràng đã đóng góp phần tích cực vào việc trong phân môn Tập làm văn, nhất là bài văn miệng, học sinh phát biểu mạnh dạn hơn, biết dùng từ, đặc biệt hạn chế việc thường hay ê, a, ngắt ngứ.
- Bài văn viết: khúc chiếc, gãy gọn hơn. Câu văn bớt rườm rà, lủng củng, biết dùng từ ngữ, hình ảnh diễn tả giàu cảm xúc,biết sử dụng biện pháp tu từ để viết văn.
- Các bài văn tả người, tả cây cối, tả đồ vật học sinh làm rất tốt, diễn đạt trôi chảy, bố cục viết rõ ràng. Kết cấu, liên kết câu rất chặt chẽ.
Kết quả điểm kiểm tra cuối kì I :
Phân môn | Điểm kiểm tra cuối kì II | |||||||
Tập làm văn | Điểm 7-8 | Điểm 5- 6 | Điểm 3-4 | Điểm trên TB | ||||
SL | TL | SL | TL | SL | TL | SL | TL | |
24 HS | 14 | 58,3 | 10 | 41,7 | 0 | 0 | 24 | 100 |
5. Những thông tin cần bảo mật: Không
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
- Vì thời gian nghiên cứu xen kẻ quá trình dạy chính khóa nên việc nghiên cứu có giới hạn trong phạm vi một lớp do tôi phụ trách.
- Khả năng bản thân giáo viên có hạn, tài liệu tham khảo ít nên phạm vi nghiên cứu còn có phần hạn chế -Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất để giúp học sinh viết văn hay hơn.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/