MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN :
Trong các môn học ở Tiểu học thì môn Tiếng Việt có nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học
sinh. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.Đặc biệt đối với học sinh lớp 2, các em mới được chuyển giao từ lớp 1 lên, việc đọc thông thạo một văn bản đối với các em là rất khó khăn. Trong khi đó, mục tiêu của giờ dạy Tập đọc không những giúp học sinh đọc đúng mà còn phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung.
Hiện nay, các cấp quản lý đã đưa ra rất nhiều các văn bản chỉ đạo các nhà trường Tiểu học tiếp tục đổi mới công tác quản lý, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá theo Thông tư 30/BGD&ĐT, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong mỗi nhà trường. Trường Tiểu học nơi tôi công tác đã thực hiện sự chỉ đạo một cách nghiêm túc và bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, việc vận dụng sự đổi mới phương pháp – hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá chưa thực sự linh hoạt, chất lượng dạy – học Tập đọc chưa cao, kỹ năng đọc của học sinh còn nhiều hạn chế. Đặc biệt qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, tôi thấy một số học sinh lớp 2 đọc còn rất yếu, còn nhiều em đọc phát âm chưa đúng, ngắt nghỉ hơi chưa hợp lý. Một số em cường độ đọc chưa được (có em đọc to quá, có em đọc lại quá lí nhí), tốc độ đọc chưa đảm bảo (đọc còn ê a, ngắc ngứ, có em đọc lại liến thoắng).
Trăn trở trước thực trạng trên, tôi luôn suy nghĩ: cần phải làm gì đó để giờ tập đọc thực sự có hiệu quả, đạt được mục đích của tiết dạy góp phần rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh. Mặt khác, tôi luôn mong muốn trau dồi nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn, trao đổi cùng đồng nghiệp nhằm đưa ra biện pháp khắc phục tồn tại và xây dựng một phương pháp hoàn thiện cho phân môn Tập đọc có chất lượng cao nhất. Tất cả những điều đó thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm tòi: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ dạy Tập đọc”
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 2
2.1. Mục đích, yêu cầu của phân môn Tập đọc lớp 2:
- Phát triển các kỹ năng nghe – đọc – nói cho học sinh. Cụ thể:
+ Đọc thành tiếng: Phát âm đúng; ngắt nghỉ hơi hợp lí; cường độ đọc vừa phải (không đọc to quá hay đọc lí nhí); tốc độ đọc vừa phải (không ê a, ngắc ngứ hay liến thoắng); đạt yêu cầu khoảng 50 tiếng /phút
+ Đọc thầm và hiểu nội dung: Biết đọc không thành tiếng, không mấp máy môi; hiểu được các từ ngữ trong văn cảnh; nắm được nội dung của câu, đoạn hoặc bài đã học.
+ Nghe: Nghe và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn, bài; nghe - hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy cô; nghe - hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn.
+ Nói: Biết cách trao đổi với các bạn trong nhóm học tập về bài đọc và biết cách trả lời các câu hỏi về bài đọc.
- Trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống. -Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; tình yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống; hứng thú đọc sách và yêu thích tiếng Việt.
2. 2. Nguyên tắc rèn đọc cho học sinh lớp 2:
Quá trình tìm hiểu thực tế, nhìn chung mỗi giờ Tập đọc đều có 2 phần lớn tìm hiểu nội dung bài và luyện đọc, hai phần này có thể tiến hành cùng một lúc, đan xen vào nhau, cũng có thể tách rời nhau tuỳ từng bài và từng giáo viên. Song dù dạy theo cách nào thì hai phần này luôn có mối quan hệ tương hỗ, khăng khít. Phần tìm hiểu bài giúp học sinh tìm hiểu kỹ nội dung nghệ thuật của từng bài, từ đó học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Ngược lại đọc diễn cảm để thể hiện nội dung bài, thể hiện những hiểu biết của mình xung quanh bài học.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Như vậy phần luyện đọc có vai trò quan trọng, học sinh đọc tốt sẽ giúp các em hoàn thành được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của chính bản thân mình. Đọc tốt giúp các em hiểu biết tiếp thu được văn minh của loài người, bồi dưỡng tâm hồn tình cảm, phát triển tư duy.
Trong giảng dạy phân môn Tập đọc, giáo viên phải chú ý đến một số nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc phát triển lời nói (nguyên tắc thực hành). Chúng ta ai cũng biết trẻ em không thể lĩnh hội được lời nói nếu chúng không nắm được lời miệng. Do vậy khi giảng dạy cần phải bảo đảm nguyên tắc này. Điều này được thể hiện rõ hơn ở phần luyện đọc, ở phần này học sinh được rèn luyện về cách phát âm, cách nghỉ hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ điệu.
+ Để giờ Tập đọc đạt kết quả cao thì phải bảo đảm nguyên tắc phát triển tư duy, phát huy tính tích cực, chủ đạo của học sinh. Do vậy phần luyện đọc giáo viên cần gợi mở, hướng dẫn học sinh tự phát hiện những chỗ cần ngắt giọng, hạ giọng ở những câu thơ, những câu văn trong bài từ đó tìm ra cách đọc hay hơn.
Như vậy để học sinh học tốt phân môn Tập đọc đặc biệt là vấn đề rèn đọc cho học sinh lớp 2, chúng ta cần đảm bảo tốt các nguyên tắc trên.
3.THỰC TRẠNG VIỆC RÈN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2 TRONG GIỜ DẠY TẬP ĐỌC:
3.1.Thực trạng về việc tổ chức dạy học của giáo viên.
Nhìn chung tất cả giáo viên trường tôi đều coi trọng tiết Tập đọc, đều xác định rõ được ý nghĩa và vai trò nhiệm vụ chính của giờ dạy Tập đọc. Trước yêu cầu đổi mới của phương pháp dạy học, đa số các giáo viên đã biết lựa chọn các hình thức tổ chức phù hợp với từng bài, biết phối hợp phương pháp truyền thống với phương pháp mới (lấy học sinh làm trung tâm). Bên cạnh đó, một số giáo viên do trình độ còn hạn chế, còn phụ thuộc nhiều vào sách giáo viên, coi sách giáo viên làm mẫu mà chưa biết xử lý linh hoạt các lượng kiến thức, các hình thức, các phương pháp cho phù hợp với trình độ của học sinh, khi đọc mẫu còn phát âm sai phụ âm đầu “L” và “N”. Một số giáo viên còn chưa quan tâm đến việc rèn đọc đúng, đọc hay cho học sinh. Việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa hợp lý, nhiều khi thì sơ sài qua loa, nhưng lúc lại quá lạm dụng, chưa sử dụng triệt để tranh minh hoạ trong sách giáo khoa. Đặc biêt, trong giờ Tập đọc, nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến học sinh chậm tiến vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm tiến độ của tiết dạy.
3.2.Thực trạng về việc học tập của học sinh.
Qua nhiều năm dạy học, khi học chương trình sách giáo khoa mới, tôi thấy chất lượng đọc của các em đã được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, tôi nhận thấy ở Tiểu học các em thường coi nhẹ phân môn Tập đọc vì các em cho rằng phân môn Tập đọc là phân môn dễ không phải suy nghĩ như môn Toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa để ý đến việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương (phần lớn các em phát âm ngọng các tiếng chứa âm l/n). Khi đọc, các em còn hay mắc lỗi ngắt giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng phần lớn các em chỉ biết bắt chước cô một cách tự nhiên.
Bên cạnh đó, trong giờ Tập đọc vẫn còn một số học sinh ít suy nghĩ để tìm nội dung bài, ít chú ý đến lỗi phát âm dễ lẫn. Khi trả lời câu hỏi còn ấp úng, rườm rà, câu văn diễn đạt chưa đầy đủ.
Năm học 2014 – 2015, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 2A gồm 23 học sinh. Sau khi học phân môn Tập đọc được 4 tuần, tôi đã tiến hành điều tra kỹ năng đọc của học sinh trong lớp 2A (lớp thực nghiệm), lớp 2B - lớp đối chứng.
*Đề khảo sát (Học sinh bốc thăm chọn 1 trong 2 đề sau)
Đề 1: Đọc bài thơ: Gọi bạn (SGK - TV2 - tập 1 – trang 28); trả lời câu hỏi 2 và câu hỏi 4 của bài.
Đề 2: Đọc bài: Làm việc thật là vui (SGK - TV2 - Tập 1 - 16) ; trả lời câu hỏi 1 và câu hỏi 2 của bài.
*Tiến hành khảo sát:
Bước 1: Tôi tổ chức kiểm tra đọc 2 lớp và phân loại kết quả như sau:
+Kết quả đọc đúng:
Lớp | Sĩ số | Đọc đúng | Đọc sai | ||||||
Đọc diễn cảm tốt | Đọc có diễn cảm | Đọc chưa diễn cảm | SL | % | |||||
SL | % | SL | % | SL | % | ||||
2A | 23 | 3 | 13.0 | 4 | 17.4 | 10 | 43.5 | 6 | 26.1 |
2B | 20 | 3 | 15.0 | 3 | 15.0 | 9 | 45.0 | 5 | 20.0 |
+Kết quả đọc hiểu:
Lớp | Trả lời đúng | Trả lời sai | ||
SL | % | SL | % | |
2A | 18 | 78.3 | 5 | 21.7 |
2B | 16 | 80.0 | 4 | 20.0 |
Qua bảng trên tôi thấy tỷ lệ học sinh đọc đúng và đọc hiểu chưa cao, còn một số học sinh đọc và trả lời câu hỏi sai. Trong số các em đọc sai ở 2 lớp thì còn nhiều kiểu sai khác nhau:
-Lẫn lộn giữa các phụ âm l và n, tr và ch...
-Đọc ngắc ngứ, ê a hoặc liến thoắng, ngắt nghỉ không đúng chỗ...
-Việc trả lời câu hỏi ở một số học sinh chưa đúng nội dung cần hỏi, cách diễn đạt chưa đầy đủ ý
Bước 2: Qua kết quả khảo sát và kết hợp theo dõi những học sinh đọc sai trong các giờ học, tôi phân loại như sau:
Số HS đọc sai của lớp | Đọc sai | |||||
Lẫn lộn các phụ âm dễ lẫn | Ngắt nghỉ không đúng chỗ | Sai phụ âm và dấu thanh | ||||
SL | % | SL | % | SL | % | |
6 | 4 | 17.4 | 5 | 21.7 | 3 | 13.0 |
Qua thực tế cho thấy ở một số học sinh đọc sai có thể các em vừa lẫn lộn phụ âm dễ lẫn, vừa đọc ngắc ngứ hoặc ngắt nghỉ không đúng chỗ...
*Xử lý kết quả khảo sát:
- Xác định kết quả học sinh đọc chưa diễn cảm và đọc sai.
- Qua việc giảng dạy tiếp xúc với học sinh, trao đổi với các đồng nghiệp tôi đã tìm ra một số nguyên nhân của việc học sinh đọc chưa tốt như sau:
+ Do các em còn mải chơi, gia đình ít có sự quan tâm sâu sát tới việc học tập của các em dẫn đễn kết quả học tập ở môn này chưa cao, thậm chí còn có em quá yếu. Do đặc điểm dân cư phần lớn các em là con em làm ruộng phong trào văn hoá - văn nghệ ít có. Đồng thời các em ít có điều kiện đọc sách báo. Ngoài thời gian học tập trên lớp các em không có thời gian học ở nhà.
+ Phân môn Tập đọc từ lâu tới nay chưa thực sự cuốn hút học sinh. Trong giờ Tập đọc giáo viên chưa thực sự đánh giá đúng vai trò của người đọc.
Trên đây là một số nguyên nhân mà do quá trình giảng dạy và tìm hiểu tôi đã rút ra được.
4. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2 TRONG GIỜ DẠY TẬP ĐỌC
4.1. Nâng cao trình độ giáo viên:
Một số giờ Tập đọc thành công, đạt được mục tiêu của tiết học và đạt chất lượng cao hay không phụ thuộc rất nhiều về trình độ chuyên môn và nghệ thuật sư phạm của người giáo viên. Điều đó đòi hỏi tất cả giáo viên phải đạt đến trình độ nhận thức chung về vai trò của tiết Tập đọc: Nhiệm vụ chủ yếu của tiết Tập đọc là dạy tiếng, mặt khác dạy Tập đọc cũng là dạy văn, dạy năng lực cảm thụ văn chương. Từ đó giáo viên hình thành và rèn luyện kỹ năng đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm và thông hiểu nội dung văn bản.
Đứng trước nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học, người giáo viên phải biết cải tiến và lựa chọn phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá, kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt giữa các phương pháp dạy học vào bài giảng đạt kết quả cao nhất. Với phương châm “lấy học sinh làm trung tâm”, giáo viên phải thực sự là người hướng dẫn, điều khiển và tổ chức mọi hoạt động học tập của học sinh, huy động mọi khả năng của học sinh tự khám phá và tìm tòi ra kiến thức, phát triển năng lực cho mỗi em, tạo cho các em niềm tin trong học tập. Ở mỗi bài dạy, giáo viên phải xác định rõ mục tiêu của từng bài, phải chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, thiết kế bài giảng cụ thể hợp lý. Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập - đó chính là cái tài của mỗi giáo viên
Tóm lại: Giáo viên chính là nhân tố quyết định sự thành công của tiết dạy. Vì vậy người giáo viên phải trau dồi vốn kiến thức, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn để thực sự là người “khởi động” dẫn dắt hoạt động, hướng dẫn học sinh tự giác, tích cực học tập, có kĩ năng đọc tốt.
4.2. Giáo viên cần chuẩn bị tốt “khâu” đọc mẫu:
Giáo viên đọc mẫu toàn bài là rất cần thiết, vì muốn học sinh đọc đúng thì phải giới thiệu cho các em đúng mẫu. Lời đọc đúng và hay của giáo viên có tác dụng định hướng cách đọc cho học sinh, đồng thời giúp các em nhận thức đúng hướng nội dung bài học. Nếu bài đọc là một văn bản nghệ thuật thì lời đọc mẫu của giáo viên còn có ý nghĩa khơi gợi hứng thú và tưởng tượng của các em, làm cho các em dễ đi vào thế giới của tác phẩm và thấy tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn.
Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc cho học sinh nên giáo viên phải đảm bảo đọc chuẩn, đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy và diễn cảm. Trước khi đọc mẫu, giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát lớp, không đi lại, giáo viên cầm sách mở rộng, thỉnh thoảng mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không để bài đọc bị gián đoạn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Người mẹ hiền”tôi cần chú ý thể hiện giọng đọc đúng cho từng nhân vật: Đọc lời rủ rê của Minh ở đoạn đầu: háo hức; lời của hai bạn ở đoạn cuối: rụt rè, hối lỗi; lời bác bảo vệ: nghiêm nhưng nhẹ nhàng; lời cô giáo: khi ân cần trìu mến, khi nghiêm khắc.
Việc đọc mẫu sẽ không phải là áp đặt học sinh, nếu giáo viên biết khích lệ những cách đọc hợp lí của từng học sinh, không đòi hỏi các em nhất thiết phải lặp nguyên xi cách đọc của thầy cô giáo. Tuy nhiên vì học sinh hay bắt chước thầy cô nên giáo viên cần phải chuẩn bị thật tốt để có cách đọc chuẩn mực.
4.3.Hướng dẫn học sinh luyện đọc với các hình thức phong phú, phát huy năng lực đọc của học sinh:
Đối với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, đọc để đúng, để diễn cảm, để hiểu nội dung của bài Tập đọc thì giáo viên phải chú ý hướng dẫn đọc.
4.3.1.Hướng dẫn luyện đọc đúng:
4.3.1.1.Hướng dẫn luyện đọc câu:
Khi luyện đọc câu, giáo viên cần hướng dẫn đọc đúng từ, cụm từ, luyện sửa phát âm sai và rèn luyện đọc đúng cho học sinh. Cụ thể:
Khi tổ chức cho học sinh tiếp nối nhau đọc từng câu, giáo viên phải theo dõi học sinh đọc để giúp sửa lỗi phát âm của các em. Nếu có những từ phần lớn học sinh phát âm sai thì giáo viên ghi từ ấy lên bảng hoặc yêu cầu học sinh nêu những từ ngữ mà học sinh thấy đọc dễ lẫn, dễ sai. Sau đó, giáo viên hướng dẫn luyện đọc các từ ngữ ấy cho các em để các em phát âm đúng, chuẩn.
Tuy nhiên, giáo viên cần tập trung gọi những học sinh đọc còn yếu và cần tăng cường cho các em nhận xét nhau đọc, đúng hay sai, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho bạn. Nếu học sinh không làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời uốn nắn sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết phải có khen - động viên, khuyến khích kịp thời.
Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ Tập đọc mà trong các tiết Tiếng Việt dạy ở buổi 2, tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để giúp các em phát âm tốt hơn.
Ví dụ: Dạng bài tập điền phụ âm đầu
+ Bài tập 1: Điền l hay n
….o…..ắng , …o…ê , ….í….ẽ , ….áo…ức
+ Bài tập 2: Điền r, d, gi
… ộn….ã , …..ập ….ờn , tháng…..iêng
+ Bài tập 3: Điền s, x
…ản …uất , …anh….anh , …o….ánh
…ung phong , ….ừng…ững
v..v và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền xong, giáo viên phải yêu cầu và kiểm tra các em đọc. Nếu các em đọc sai, giáo viên phải kịp thời uốn nắn ngay, phải hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể, rõ ràng; có thể sử dụng trực quan để học sinh thấy: môi, răng , lưỡi, bộ máy phát âm, khi phát âm nó như thế nào? Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt, hướng dẫn học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em đọc trơn câu, đoạn, bài tốt hơn.
4.3.1.2.Hướng dẫn luyện đọc đoạn, bài:
* Đọc đúng: dạng thơ
Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một công việc không thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy: học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa, chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh tìm được trong bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ở đó. Do vậy, khi dạy những bài đọc thơ, tôi thường chú ý hướng dẫn HS ngắt nhịp thơ.
Ví dụ: Bài “Gọi bạn”
Bê Vàng đi tìm cỏ/ Lang thang/ quên đường về/ Dê Trắng thương bạn quá/ Chạy khắp nẻo tìm Bê/ Đến bây giờ Dê Trắng/ Vẫn gọi hoài: / “Bê!// Bê!” // |
|
Khi hướng dẫn ngắt nhịp thơ, tôi gọi học sinh nêu cách ngắt giọng của các em ở từng dòng thơ. Nếu học sinh nói đúng, giáo viên công nhận ngay và cho các em dùng ký hiệu đánh dấu vào sách để khi đọc không bị quên. Nếu học sinh nói sai giáo viên sửa lại cho học sinh. Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn học sinh biết nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
Ví dụ: Bài “Mẹ”
Khi đọc bài thơ, học sinh thường ngắt giọng theo nhịp thơ lục bát : 2/4 và 4/4. Tôi đã sửa cho các em khi đọc dòng thơ 7 và 8 cần ngắt theo nhịp 3/3 và 3/5 để làm rõ nghĩa của từng dòng thơ.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Lặng rồi/ cả tiếng con ve
Con ve cũng mệt/ vì hè ắng oi
.................................................................................
Những ngôi sao/ thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con.
Sau khi học sinh luyện đọc ngắt nhịp dòng thơ đúng thì giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa một số từ ngữ khó trong bài. Việc giải nghĩa từ giáo viên nên phát huy tính tích cực của học sinh bằng các cách khác nhau như : giáo viên đưa từ - học sinh nêu nghĩa ; giáo viên đưa nghĩa của từ - học sinh phát hiện từ ứng với nghĩa đó hoặc giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt câu trong đó có chứa từ cần giải nghĩa. Ngoài ra, giáo viên có thể dùng đồ dùng trực quan hoặc hình ảnh minh hoạ để giải nghĩa từ, giúp cho bài học được sinh động hơn. Khi học sinh hiểu nghĩa của một số từ ngữ khó sẽ giúp các em luyện đọc tốt hơn. (Việc giải nghĩa từ ngữ khó cũng được áp dụng khi dạy các bài tập đọc dạng văn xuôi.)
Bên cạnh việc rèn đọc đúng trong các giờ Tập đọc ở trên lớp thì trong các tiết Tiếng Việt tăng, tôi cũng thường đưa ra những câu thơ hoặc bài thơ ngắn để giúp học sinh luyện đọc và ngắt giọng, cũng có thể đó là bài thơ trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2 nhưng không thuộc chương trình học mà được dạy ở tiết Tiếng Việt tăng
Ví dụ: Bài « Thương ông » - Tiếng Việt 2, tập 1
Khi đọc, học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen nhưng tôi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em cách đọc vắt dòng ở một số dòng thơ: cuối dòng trước đọc vắt luôn sang dòng sau :
Khi nào ông đau/
Ông nói mấy câu/
« Không đau ! // không đau !//
Dù đau đến đâu
Khỏi ngay lập tức.//
* Đọc đúng: dạng văn bản văn xuôi, :
Tương tự như ở thơ, giáo viên cần chú trọng rèn cho các em biết ngắt, nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đối với những câu văn dài cần hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù hợp. Cụ thể tôi cho học sinh tự tìm những câu văn dài đó hoặc do chính giáo viên đưa ra. Sau đó yêu cầu học sinh xác định cách ngắt giọng, gọi học sinh nhận xét đúng - sai. Đối với học sinh lớp 2, giáo viên cũng chưa nên hỏi nhiều quá về việc tại sao các em lại ngắt giọng như vậy mà nếu thấy đúng thì giáo viên công nhận ngay, còn nếu sai thì sửa cho các em và giải thích để các em thấy rõ hơn. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài, bao giờ giáo viên cũng phải nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu văn, đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa các tiếng, từ, dấu câu.
Ví dụ: Bài “Ngôi trường mới”
Câu dài trong bài cần hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi là:
“Cả đến chiếc thước kẻ,/ chiếc bút chì/ sao cũng đáng yêu đến thế !//
Tôi đã chép câu này lên bảng và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên
Ví dụ : Bài “Bàn tay dịu dàng”
Học sinh đã phát hiện ra câu dài trong bài là ngắt giọng như sau:
“Thế là chẳng bao giờ An còn được nghe bà kể chuyện cổ tích,/ chẳng bao giờ An còn được bà âu yếm,/ vuốt ve,…//”
Tôi đã bổ sung thêm cách nghỉ hơi cho các em như sau:
“Thế là / chẳng bao giờ An còn được nghe bà kể chuyện cổ tích,/ chẳng bao giờ An còn được bà âu yếm,/ vuốt ve,…//”
Tôi giải thích ta ngắt ở sau từ “Thế là” để nhấn mạnh thêm nỗi buồn của An khi bà mất.
Đối với những bài có lời thoại, giáo viên phải hướng dẫn kỹ học sinh cách lên giọng cuối câu hỏi và xuống giọng cuối câu kể (câu trả lời) sao cho phù hợp với giọng của từng nhân vật trong bài.
Ví dụ : Bài “Chiếc bút mực”
Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc từng câu thoại của cô giáo và của Lan. Câu hỏi của cô giáo:
-Em làm sao thế? (đọc lên giọng ở cuối câu và thể hiện được thái độ dịu dàng, thân mật của cô giáo)
Câu trả lời của Lan:
-Tối qua, anh trai em mượn bút, quên không bỏ vào cặp cho em. (đọc xuống giọng ở cuối câu, thể hiện giọng buồn)
Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo viên phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc.Việc luyện đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được trôi chảy, lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc đúng văn bản được học mà không phải tình trạng học vẹt. Đối với những học sinh đọc kém do trình độ chưa đạt “Chuẩn” ở lớp dưới, giáo viên cần kiên trì, giúp đỡ và hướng dẫn thêm, không “bỏ qua” nhưng cũng không “nôn nóng” đòi hỏi phải đọc đúng ngay tại lớp. Còn đối với những học sinh đọc chưa chính xác do cấu tạo bộ máy phát âm còn khiếm khuyết, giáo viên cần tập riêng và giúp đỡ ngoài giờ, học sinh đọc chưa đạt yêu cầu (ê a liến thoắng ...) giáo viên cần chỉ rõ hạn chế và tìm cách giúp đỡ học sinh khắc phục.
Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện đọc thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như: đọc cá nhân, đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Giáo viên có thể tổ chức luyện đọc dưới hình thức trò chơi như: truyền điện; thi đọc cá nhân- nhóm,… Với các hình thức đọc này thì giáo viên chỉ là người tổ chức điều khiển, tuy nhiên giáo viên có thể là người phân nhóm có chủ định để học sinh giúp nhau luyện đọc tốt (học sinh năng khiếu sẽ giúp học sinh chậm tiến).
4.3.2. Hướng dẫn luyện đọc hiểu:
Giáo viên cần nhận thức được bước luyện đọc hiểu hay còn gọi là tìm hiểu bài không những hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi ở sách giáo khoa, mà thông qua tìm hiểu bài còn rèn luyện kỹ năng đọc thầm cho học sinh. Cho nên, ngoài việc xác định cho học sinh biết đọc câu, đoạn văn hay khổ thơ nào đọc để nắm được trả lời điều gì thì các em phải rèn luyện kỹ năng đọc thầm.
Khi yêu cầu học sinh đọc thầm giáo viên phải kiểm tra đánh giá kết quả đọc thầm của học sinh bằng cách giáo viên thường ra các câu hỏi giúp học sinh đọc hiểu (đọc để hiểu – biết – nhớ điều gì?). Ngoài ra cần đa dạng hình thức đọc thầm với mục đích tạo được những hiệu quả linh hoạt.
Ví dụ: Với bài “Thư Trung thu”, khi tìm hiểu bài GV có thể yêu cầu HS đọc thầm đoạn 2 để trả lời câu hỏi: Bác Hồ khuyên các cháu làm những việc gì? với yêu cầu đó HS sẽ tập trung vào đọc bài và sẽ hiểu được nội dung vừa đọc.
Để giúp học sinh đọc hiểu tốt nội dung các bài đọc thì trước hết đòi hỏi giáo viên phải xây dựng hệ thống câu hỏi để tìm hiểu nội dung bài tập đọc đó.
Khi xây dựng hệ thống câu hỏi, giáo viên phải xác định được mục đích yêu cầu chính của từng câu hỏi và việc sử dụng câu hỏi đó trong bài. Hệ thống câu hỏi thật ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, giúp học sinh hiểu bài tập đọc nói về vấn đề gì? đem lại những hiểu biết gì? để mở rộng kiến thức và tích hợp các nội dung giáo dục học sinh.
Câu hỏi đưa ra không chỉ giới hạn trong kiến thức bài học mà cần phải có những câu hỏi phát triển kích thích sự tìm tòi cái mới. Hệ thống câu hỏi phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý học sinh, phù hợp với trình độ học sinh và phải có sự linh hoạt, không nhất thiết phải đi theo một trình tự nhất định.
Ví dụ: Bài “Bông hoa Niềm Vui”. Tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi như sau:
-Câu hỏi tìm hiểu đoạn 1 và đoạn 2:
+Mới sáng tinh mơ, Chi đã vào vườn hoa để làm gì?
+Chi tìm bông hoa Niềm Vui để làm gì?
+Bạn Chi đáng khen ở chỗ nào?
+Vì sao Chi không dám tự ý hái bông hoa Niềm Vui?
+Bạn Chi đáng khen ở điểm nào nữa?
-Câu hỏi tìm hiểu đoạn 3 và đoạn 4:
+Khi nhìn thấy cô giáo, Chi đã nói gì?
+Khi biết lí do vì sao Chi rất cần bông hoa cô giáo đã làm gì?
+Bố của Chi đã làm gì khi khỏi bệnh?
-Câu hỏi về nội dung bài và liên hệ:
+Qua bài tập đọc, em cảm nhận được điều gì?
+ Em học tập được ở bạn Chi đức tính gì?
Khi giáo viên đã xây dựng được hệ thống câu hỏi thì việc chuyển tải câu hỏi đó cho học sinh bằng cách nào để học sinh hiểu được nội dung bài và có hứng thú học tập - đó là một vấn đề rất quan trọng.
Thực tế, tôi thường yêu cầu học sinh đọc thầm từng đoạn và trả lời câu hỏi ứng với mỗi đoạn đó. Sau mỗi đoạn, tôi thường chốt ý chính của đoạn và chuyển ý đoạn sau. Việc trả lời các câu hỏi, tôi thường tổ chức bằng các hình thức khác nhau như: Có câu hỏi thì giáo viên nêu – học sinh trả lời; có câu hỏi tôi cho HS trả lời qua việc thảo luận nhóm; có những câu hỏi tôi xây dựng hình thức trắc nghiệm để học sinh chọn đáp án; có câu hỏi tôi cho học sinh tự nêu câu hỏi và chỉ định bạn trả lời. Với hình thức học tập như vậy, học sinh rất hào hứng học tập, các em được khắc sâu bài và được tự kiểm tra đánh giá lẫn nhau, giúp cho các em tự tin trong học tập.
Tóm lại: Việc giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi và tổ chức cho học sinh tìm hiểu bài đọc mang tính tích hợp, cụ thể hoá, bám sát nội dung chủ đề của bài, sẽ giúp học sinh thực sự đạt được mục tiêu tiết học: Đọc có ý thức, đọc diễn cảm và thông hiểu nội dung bài đọc.
4.3.3.Hướng dẫn luyện đọc lại (học thuộc lòng):
Ở phần này, tôi để các em tự do thể hiện, phát huy hết khả năng đọc của bản thân, miễn là các em đảm bảo được theo các phần luyện đọc thành tiếng ở trên.
Thông thường, tôi cho các em tự chọn một đoạn văn hay một khổ thơ mà các em thích nhất để đọc. Tôi yêu cầu các em nêu giọng đọc để đọc đúng và hay đoạn văn và khổ thơ đó. Sau đó, tôi tổ chức cho các em luyện đọc theo nhóm đôi: cứ một bạn đọc tốt kết hợp với một bạn đọc chưa tốt để giúp đỡ, hướng dẫn cách đọc cho nhau.
Tiếp theo, tôi tổ chức cho các em thi đọc với nhau. Ở các tiết chính khoá, tôi thường cho các em đọc tốt thi đọc trước để các em học sinh khác nhận xét và học tập. Còn những em đọc chưa tốt, đọc chậm ngoài việc các em được thi đọc ở tiết chính khoá thì tôi còn dành nhiều thời gian cho các em thi đọc ở tiết Tiếng Việt tăng để các em có thời gian luyện đọc và tự tin hơn trong khi đọc.
Với các bài học thuộc lòng, giáo viên nên tổ chức cho học sinh thi đọc thuộc để không khí lớp sối nổi, sinh động và hiệu quả giờ dạy cao hơn
Đối với các bài đọc có lời đối thoại của các nhân vật thì tôi tổ chức cho học sinh đọc dưới hình thức phân vai. Đây là một hình thức đọc có hiệu quả đối với các tác phẩm có đối thoại, khi đọc giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhập vai, giúp cho học sinh có thể đọc và hình dung được sâu sắc thế giới nghệ thuật phong phú trong tác phẩm. Hơn nữa đây cũng là dịp giúp học sinh có điều kiện phân biệt giữa giọng kể, giọng trần thuật, miêu tả, đối thoại trong văn bản, đọc đoạn văn em thích, đọc giọng nhân vật, đọc nối tiếp, đọc theo nhóm, đồng thanh, cá nhân, từng đoạn, cả bài ...
Ví dụ: Bài “Chuyện bốn mùa”
Sau khi tìm hiểu bài xong, tôi cho HS luyện đọc lại dưới hình thức đọc phân vai
Tôi cho học sinh nêu giọng đọc của từng nhân vật:
.Giọng người dẫn chuyện: chậm dãi, khoan thai
.Giọng Đông nói với Xuân: hơi cao giọng và có vẻ mong muốn được như Xuân
.Giọng Xuân: nhẹ nhàng.
.Giọng Hạ: vui tươi nhí nhảnh.
.Giọng Đông: tự nói về mình buồn tủi.
.Giọng bà Đất: ôn tồn, hiền hậu
Khi tổ chức đọc thì lượt đầu giáo viên và 5 em đọc tốt đọc; sau đó giáo viên cho các đối tượng học sinh ở trong lớp được luyện đọc. Sau mỗi lần đọc, giáo viên tổ chức cho HS nhận xét, góp ý, đánh giá lẫn nhau. Như vậy, nhiều em sẽ được luyện đọc và tạo cho các em tự tin trong rèn đọc hơn ; các em hiểu được văn bản sâu hơn.
Bên cạnh một số biện pháp nêu trên, để rèn đọc tốt cho học sinh lớp 2, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần chú ý một số điểm sau:
-Khuyến khích học sinh đọc những mẩu truyện về gương người tốt, việc tốt; động viên học sinh tham gia “Thư viện xanh” của trường, vừa là để cho các em có thêm hiểu biết về thế giới xung quanh, vừa rèn kĩ năng đọc cho học sinh.
- Nếu học sinh đọc chưa chính xác do cấu tạo bộ máy phát âm còn khiếm khuyết thì giáo viên cần tập riêng và giúp đỡ ngoài giờ. Nếu học sinh đọc chưa đạt yêu cầu thì giáo viên cần chỉ rõ hạn chế và tìm cách giúp đỡ học sinh khắc phục.
-Thường xuyên phối hợp cùng phụ huynh học sinh, đề nghị họ thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc học tập của con em mình.
-Giáo viên luôn đánh giá kịp thời những cố gắng của học sinh. Theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Giáo dục – Sở Giáo dục và Phòng giáo dục thì năm học 2014 - 2015 giáo viên không được đánh giá học sinh bằng điểm số mà thực hiện đánh giá học sinh theo Thông tư 30/BGD&ĐT, vì vậy đòi hỏi giáo viên phải theo sát quá trình học tập và rèn luyện của học sinh. Giáo viên phải tích cực thường xuyên quan sát, trao đổi, sát sao với học sinh để có những nhận xét đúng với trình độ học sinh, phù hợp với kết quả đạt được của từng em giúp các em nhận thấy ưu khuyết điểm để khắc phục, phấn đấu học tập và rèn luyện đạt kết quả cao hơn. Giáo viên cần tích cực hơn nữa trong việc động viên khích lệ các em, cho dù đó là sự tiến bộ nhỏ nhất. Hơn nữa, mỗi giáo viên phải luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Muốn đạt được mục đích này, người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi, với học sinh lớp 2 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv… để tập cho các em nền nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau.
5. DẠY THỰC NGHIỆM:
(Giáo án thực nghiệm lưu ở phụ lục 2 của sáng kiến)
6. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu, nghiên cứu và thực nghiệm một số biện pháp nói trên vào trực tiếp lớp mình chủ nhiệm (lớp 2A) và khảo sát chất lượng lớp đối chứng (lớp 2B), tôi thu được kết quả qua khảo sát như sau:
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Đề khảo sát (Học sinh bốc thăm chọn 1 trong 2 đề sau)
+ Đề 1: Đọc bài thơ: Mùa xuân đến (SGK TV2, tập 2, trang 17) và trả lời câu hỏi 1, 2 của bài.
+ Đề 2: Đọc bài: Vè chim (SGK TV2, tập 2, trang 28) và trả lời câu hỏi 1 và câu hỏi 3 của bài.
Kết quả khảo sát:
+Kết quả đọc đúng
Lớp | Sĩ số | Đọc đúng | Đọc sai | ||||||
Đọc diễn cảm tốt | Đọc có diễn cảm | Đọc chưa diễn cảm | |||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
2A | 23 | 7 | 30.4 | 9 | 39.1 | 4 | 17.5 | 3 | 13.0 |
2B | 20 | 5 | 25.0 | 7 | 35.0 | 4 | 20.0 | 4 | 20.0 |
+Kết quả đọc hiểu:
Lớp | Trả lời đúng | Trả lời sai | ||
SL | % | SL | % | |
2A | 22 | 95.7 | 1 | 4.3 |
2B | 18 | 90.0 | 2 | 10.0 |
So sánh kết quả sau khi thực nghiệm với kết quả trước khi thực nghiệm và lớp đối chứng không dạy theo biện pháp của tôi, tôi nhận thấy:
Chất lượng học sinh trong lớp thực nghiệm tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ học sinh đọc đúng cao, những em trước đây đọc ê a thì giờ đây đã đọc tương đối tốt. Nếu trước đây các em chỉ đọc đúng, ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện mà không tính đến nghĩa thì giờ đây trong số đó các em đã biết ngắt giọng đúng cho một bài tập đọc, các em nói câu trả lời tương đối đầy đủ, các em mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập, hiệu quả giờ dạy được nâng cao, phát huy được tính chủ động, sáng tạo và tạo được sự hứng thú say mê học tập của học sinh
Còn chất lượng học sinh lớp không thực nghiệm thì kết quả có tăng nhưng không đáng kể mà do sự phát triển tự nhiên theo lứa tuổi của các em.
Tóm lại :
Sáng kiến kinh nghiệm về rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2 trong các giờ dạy Tập đọc đã đem lại lợi ích thiết thực trên các phương diện sau:
- Về chất lượng học tập của học sinh: So với việc không vận dụng các biện pháp kể trên thì chất lượng đọc của học sinh lớp 2 còn ở mức độ, học sinh học tập còn thụ động, chưa phát triển hết khả năng học tập của các em. Còn việc vận dụng các biện pháp trên vào thực tiễn giảng dạy thì chất lượng học tập của học sinh được nâng cao, các em đạt chuẩn kiến thức - kỹ năng môn học. Đặc biệt, vận dụng các giải pháp này, học sinh được phát triển tư duy, phát huy tính tích cực, chủ đạo của các em. Từ đó giúp các em phát triển được năng lực giao tiếp bằng chính ngôn ngữ của các em
- Về chất lượng dạy của giáo viên: Việc vận dụng các biện pháp trên vào giảng dạy giúp cho tiết học diễn ra nhẹ nhàng, giáo viên gần gũi với học sinh, tạo được mối tình cảm thân thiết giữa thầy và trò, tạo được môi trường học tập thân thiện. Ngoài ra, việc các em tự giác, tích cực học tập, có kỹ năng đọc tốt trong giờ Tập đọc đã góp phần vào thành công của tiết dạy, giúp giáo viên đạt được mục tiêu môn học đề ra.
7. BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Qua nghiên cứu về đặc thù phân môn Tập đọc, tôi thấy đây là một phân môn rất quan trọng vì nó không chỉ hình thành kỹ năng nghe – nói – đọc cho học sinh mà nó còn góp phần hình thành nhân cách cho học sinh Tiểu học, thông qua việc cảm thụ nội dung của bài văn, bài thơ. Vậy qua nghiên cứu, giảng dạy, tôi rút ra được một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng đọc như sau:
- Giáo viên phải nghiên cứu và nắm chắc chương trình, nội dung (các loại bài cụ thể).
- Xác định rõ mục tiêu của từng bài đọc, lập kế hoạch giảng dạy thật chu đáo.
- Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài trước khi lên lớp, phải dự đoán được tình huống có thể xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp thích hợp để giải quyết tình huống đó.
- Giáo viên cần nắm rõ từng đối tượng học sinh, như: Kinh nghiệm đọc, kinh nghiệm cảm thụ.
- Giáo viên chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học. Giáo viên luôn coi học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, còn giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn học sinh.
- Sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học và cách đánh giá phải linh hoạt, phù hợp.
- Theo dõi thường xuyên sự tiến bộ của học sinh để điều chỉnh phương pháp cho kịp thời.
- Kết hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng đọc.
- Và một điều không thể thiếu đó là lòng nhiệt tình, sự tận tâm với nghề, đức tính chịu khó kiên trì, với đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu tài liệu phục vụ bài dạy của mỗi giáo viên
8. ĐIỀU KIỆN ĐỂ SÁNG KIẾN ĐƯỢC NHÂN RỘNG:
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi không chỉ áp dụng rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 mà còn có thể áp dụng rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 3 các trường Tiểu học. Vì vậy, theo tôi, sáng kiến có tính khả thi cao và tính nhân rộng.
Vậy, để sáng kiến kinh nghiệm về một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong các giờ Tập đọc được nhân rộng thì theo tôi cần phải có các điều kiện sau:
- Về cơ sở vật chất: Các nhà trường Tiểu học cần đảm bảo đầy đủ trang thiết bị dạy học như: bàn ghế của học sinh đảm bảo từ 1 đến 2 chỗ ngồi, có thể di chuyển khi hoạt động nhóm dễ dàng; tranh minh hoạ cho các bài Tập đọc dùng để giới thiệu, khai thác nội dung bài; bảng phụ để chép các đoạn văn, đoạn thơ hướng dẫn luyện đọc; sách tham khảo Tiếng Việt 2 để giúp giáo viên nghiên cứu, bổ trợ bài dạy; sách tham khảo dùng cho dạy các tiết ở buổi 2 ; các tài liệu liên quan đến dạy và đánh giá học sinh môn Tiếng Việt lớp 2,…
- Về giáo viên: phải vận dụng linh hoạt đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá; biết đáp ứng nhu cầu và mục đích của học sinh. Đồng thời, giáo viên phải kiên trì, hiểu tâm lý của học sinh để điều chỉnh nhịp độ giảng dạy theo nhịp độ phát triển của học sinh; biết cập nhật những thông tin mới liên quan đến việc dạy và học; biết vận dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đạt hiệu quả
- Về phụ huynh học sinh: Phụ huynh biết ủng hộ các hoạt động dạy học của giáo viên như: động viên con em mình học tập, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho các em,… Phụ huynh cũng phải biết được những thông tin về một số vấn đề đổi mới của giáo dục Tiểu học hiện nay như việc đánh giá học sinh theo Thông tư 30 để có sự hỗ trợ giáo viên trong việc kèm cặp con em mình.
- Về học sinh: Học sinh tích cực chủ động, tự học và sáng tạo trong việc học Tập đọc.
Đặc biệt, một điều kiện quan trọng để giúp cho sáng kiến được nhân rộng đó là cần sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện của các cấp quản lý trong việc tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề không những ở cấp trường mà mở rộng sự giao lưu học hỏi với các trường bạn. Qua đó tôi có thể truyền đạt tới đồng nghiệp những kinh nghiệm của bản thân, đồng thời được góp ý, được học hỏi từ những kinh nghiệm quý giá khác.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
1.1. Đánh giá thực trạng
(như đã trình bày ở mục 3 – phần mô tả sáng kiến)
1.2. Các giải pháp đã thực hiện:
(như đã trình bày ở mục 4 – phần mô tả sáng kiến)
1.3. Kết quả áp dụng các giải pháp:
(như đã trình bày ở mục 6 – phần mô tả sáng kiến)
Tóm lại, Qua một thời gian thực hành đúc kết và áp dụng sáng kiến, tôi có thể khẳng định rằng: các giải pháp đưa ra là hoàn toàn đúng đắn, góp phần khắc phục một số hạn chế của học sinh, nhằm giúp học sinh học tập tốt môn học; học sinh hứng thú học tập và kết quả học tập của học sinh được nâng dần lên; học sinh đọc chưa tốt giảm đi, học sinh có kỹ năng đọc tốt tăng lên. Đặc biệt, một số học sinh không những đọc đúng mà đã biết đọc hay và diễn cảm. Hơn nữa, tôi thấy rằng: các giải pháp tôi đưa ra đều nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh vì khi thực hiện phương pháp và hình thức dạy học này, học sinh hoàn toàn chủ động, tự giác, sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá trình dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lý của học sinh lớp 2.
2. KHUYẾN NGHỊ:
2.1.Đối với Phòng Giáo dục:
-Mở nhiều chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy – học và đặc biệt là đối với phân môn Tập đọc.
-Mở các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên.
-Mở các hội thi Đọc đúng-Đọc hay đối với học sinh
2.2. Đối với nhà trường:
-Đầu tư cơ sở vật chất, sách tham khảo, đồ dùng minh hoạ cho việc dạy học phân môn Tập đọc được thuận lợi.
-Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức chuyên đề thống nhất phương pháp chung cả khối, đồng nghiệp học hỏi lẫn nhau. Chỉ đạo tổ chuyên môn sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học của phân môn Tập đọc đạt hiệu quả.
-Duy trì tốt hoạt động của Thư viện xanh
2.3. Đối với giáo viên:
-Cần sớm tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà giáo dục về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá ở Tiểu học. Sử dụng triệt để phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm .
-Thường xuyên rèn luyện cách phát âm chuẩn, cách đọc đúng cho học sinh noi theo.
-Tổ chức cho các em thi đọc đúng, đọc hay ở lớp hàng tháng để nắm bắt được chất lượng của học sinh và gây hứng thú học tập cho các em.
-Tích cực học hỏi, trau dồi các kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn cho bản thân.
Trên đây là một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong các giờ Tập đọc của riêng tôi và tôi áp dụng trong giảng dạy bước đầu đã có kết quả. Song cũng không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi mong được có sự tham gia góp ý của các nhà quản lí, bạn bè đồng nghiệp để tôi xây dựng được một kinh nghiệm đầy đủ, có hiệu quả tốt hơn.
Mục lục
Tên nội dung | Trang |
NHỮNG THÔNG TIN VỀ SÁNG KIẾN TÓM TẮT SÁNG KIẾN MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến 2.Cơ sở lý luận: 3. Thực trạng của việc rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ dạy Tập đọc 4. Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ dạy Tập đọc 5.Dạy thực nghiệm 6.Kết quả thu được 7.Bài học kinh nghiệm 8.Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ | 2 3 5
26 |
PHỤ LỤC 2
GIÁO ÁN DẠY THỰC NGHIỆM
Lớp thực nghiệm: lớp 2A
Phân môn: Tập đọc – Lớp 2
Tên bài dạy: Mùa xuân đến – Tiếng Việt 2, tập 2, trang 17
1. Mục tiêu:
- Biết ngắt nghỉ hơi đúng sau các dấu câu; đọc rành mạch được bài văn
-Hiểu nội dung bài: Bài văn ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân (trả lời được câu hỏi 1, 2; câu hỏi 3 mục a hoặc b)
- Giáo dục học sinh yêu thích vẻ đẹp của mùa xuân.
*GDBVMT: Vì mùa xuân đến làm cho cả bầu trời và mọi vật đều trở nên đẹp đẽ và giàu sức sống nên chúng ta cần có ý thức bảo vệ môi trường.
2. Đồ dùng dạy- học:
- Tranh minh hoạ( SGK)
- Bảng phụ chép câu văn cần hướng dẫn luyện đọc.
- Tranh hoa mai, hoa đào
- Giấy trắng khổ to
3.Hoạt động dạy - học:
3.1.Kiểm tra bài cũ:
-Gọi 2 học sinh tiếp nối nhau đọc bài Ông Mạnh thắng Thần Gió và trả lời câu hỏi 2 và 5 cuối bài -Nhận xét, tuyên dương | - HS1 đọc đoạn 1, 2, 3 và trả lời câu hỏi 2 HS2 đọc đoạn 4 và 5, trả lời câu hỏi 5 -HS nhận xét bạn đọc |
3.2. Dạy – học bài mới:
3.2.1 . Giới thiệu bài học.(Sử dụng tranh minh hoạ trong SGK để giới thiệu)
3.2.2.Luyện đọc
*GV đọc mẫu
*Hướng dẫn luyện đọc và giải nghĩa từ khó
+ Đọc từng câu GV chú ý hướng dẫn các từ khó: nắng vàng, nảy lộc,… +Đọc từng đoạn: Chia đoạn: 3 đoạn -Gọi HS đọc nối tiếp đoạn kết hợp luyện đọc câu dài. Treo bảng phụ, hướng dẫn HS đọc câu dài + Nhưng trong trí nhớ ngây thơ của chú / còn mãi sáng ngời hình ảnh .... trắng / biết nở .... tới // -Gọi tiếp 3 học sinh đọc nối tiếp Kết hợp giải nghĩa từ : .Một loài cây có hoa trắng, quả màu nâu, vàng hay xanh nhạt, ăn có vị ngọt hoặc chua đó là cây gì? .Em hiểu nồng nàn nghĩa là gì? . Loài chim có đuôi dài, lông màu đen hay hót là loài chim gì? .Em hãy đặt câu với từ đỏm dáng? -GV gọi tiếp 3 học sinh đọc nối tiếp +Đọc từng đoạn trong nhóm +Thi đọc + Đọc đồng thanh | +Đọc nối tiếp câu 2 lần Lớp nhận xét và sửa từ bạn đọc sai +HS chia đoạn -Lượt 1: 3 HS nối tiếp nhau đọc từng đoạn trước lớp, rồi tổ chức cho HS luyện đọc câu dài
-Lượt 2: 3 HS nối tiếp đọc đoạn kết hợp gọi HS giải nghĩa từ khó ứng với mỗi đoạn. .HS nêu: mận
. HS nêu: ý nói toả mùi thơm đậm đà, dễ chịu .Chim khướu
.HS đặt câu -Lượt 3: 3 HS nối tiếp nhau đọc. +HS đọc theo nhóm bàn +Các nhóm thi đọc cá nhân +Cả lớp đọc đồng thanh |
3.2.3.Tìm hiểu bài:
- Yêu cầu HS đọc thầm đoạn 1 và trả lời câu hỏi sau: +Dấu hiệu nào báo mùa xuân đến? +Ngoài dấu hiệu hoa mận tàn thì các em còn biết dấu hiệu nào của các loài hoa báo mùa xuân đến? (GV cho HS xem tranh hoa mai, hoa đào) *GV chốt ý đoạn 1: Dấu hiệu báo mùa xuân đến -Yêu cầu HS thảo luận nhóm đôi câu hỏi 2: Kể lại những thay đổi của bầu trời và mọi vật khi mùa xuân đến? *GV chốt ý đoạn 2: Sự thay đổi của mọi vật và bầu trời khi mùa xuân đến -Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 4 người để trả lời câu hỏi 3 (a) , ghi đáp án vào tờ giấy khổ to (GV phát cho mỗi nhóm một tờ giấy) GV chốt đáp án đúng +GV hỏi thêm : Tìm những từ ngữ trong bài giúp em cảm nhận được vẻ đẹp của mỗi loài chim? +GV lưu ý thêm cho HS hiểu các từ miêu tả hương vị của hoa xuân và vẻ đẹp của loài chim là các từ chỉ đặc điểm *GV chốt ý đoạn 3 +Qua bài văn này, tác giả muốn nói với chúng ta điều gì? +Em thích nhất vẻ đẹp gì khi mùa xuân đến? *Liên hệ GDBVMT: Em cần làm gì để giữ gìn được vẻ đẹp của mùa xuân? 3.2.4. Luyện đọc lại: -Cho HS nêu giọng đọc toàn bài -Tổ chức cho HS thi đọc cá nhân toàn bài -Nhận xét, đánh giá 3.3.Củng cố, dặn dò : -Qua bài văn em biết những gì về mùa xuân? - Nhận xét tiết học. -Dặn HS biết giữ gìn vẻ đẹp của mùa xuân… | -HS đọc thầm đoạn 1
+Hoa mận vừa tàn +ở miền Bắc hoa đào nở, miền
-HS quan sát tranh
- Thảo luận theo nhóm đôi và báo cáo kết quả . HS khác nhận xét bổ sung.
-HS thực hiện yêu cầu của giáo viên Đại diện nhóm trình bày đáp án Các nhóm khác nhận xét, bổ sung
+HS năng khiếu nêu
+HS nhận xét về các từ ngữ đó
+ Tác giả muốn ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân. + Tự đưa ra ý kiến.
-HS nêu
-HS nêu - 5 HS ở các đối tượng thi đọc toàn bài.
-HS phát biểu
-HS lắng nghe |
Nguồn: ST
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/