1 . Lời giới thiệu
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, môn Toán có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó giúp ta rèn phương pháp suy nghĩ, phương pháp
Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 trong trường Tiểu học ”
“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 trong trường Tiểu học ”.
3. Tác giả sáng kiến:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
“Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 trong trường Tiểu học ”.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Từ tháng 9 năm 2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Giới thiệu chung về phương pháp dạy học ( PPDH ) Toán 3
- PPDH Toán 3 là dạy học thông qua việc tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập cho học sinh một cách tích cực, chủ động, sáng tạo. Giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho học sinh dưới sự trợ giúp đúng mức của SGK Toán 3 và song song với đó là sự kết hợp với các đồ dùng dạy và học, để mỗi học sinh có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh nội dung học tập để thực hành và vận dụng các nội dung đó theo khả năng của bản thân mỗi em.
- Ngoài các PPDH đã sử dụng khi dạy học Toán ở lớp 1 và lớp 2, đến lớp 3 còn phải sử dụng các PPDH giúp học sinh tập nêu các nhận xét hoặc các quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Đây là cơ hội phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa trong học toán ở cuối giai đoạn các lớp 1, 2, 3; đồng thời tiếp tục phát triển khả năng diễn đạt của học sinh theo mục tiêu của môn Toán ở tiểu học.
7.2. Vai trò của giải toán có lời văn lớp 3
Việc giải toán có lời văn ở tiểu học là một nội dung vô cùng quan trọng trong mạch kiến thức môn toán. Trong quá trình giải Toán học sinh phải tư duy một cách chủ động, tích cực, linh hoạt. Vậ dụng thích hợp các kiến thức và khả năng đã có vào các tình huống khác nhau, phải biết phát hiện những dữ kiện chưa được nêu ra một cách tường minh trong chừng mực nào đó phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo vì vậy giải toán còn là một trong những biểu hiện " năng động " trong hoạt động trí tuệ của học sinh.
Toán lớp 3 bổ sung và hoàn thiện về kiến thức, kĩ năng của toán lớp 1, 2 và chuẩn bị cho học toán ở các lớp 4, 5. Mặc dù ở lớp Ba các em đã biết cách giải và trình bày thành thạo một bài toán có lời văn, tuy nhiên các bài toán có liên quan đến phân số, gấp, giảm một số lần…bây giờ các em mới được học, các em còn khá lạ lẫm với cách giải các bài toán này. Vì vậy các em gặp không ít khó khăn khi trình bày lời giải, và cần có sự hưỡng dẫn chỉ bảo từ phía thầy cô.
7.3. Nội dung chương trình toán có lời văn ở lớp 3:
- Hệ thống kiến thức toán có lời văn lớp 3 được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác của môn Toán lớp 3. Giải toán có lời văn không chỉ củng cố các kiến thức toán học đã lĩnh hội mà còn giúp học sinh biết cách vận dụng các kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú và những vấn đề thường gặp trong cuộc sống.
* Mục tiêu của bài giải toán có lời văn ở lớp 3:
- Học sinh biết giải và trình bày bài giải bài toán có đến hai bước tính.
- Biết giải và trình bày bài giải một số dạng toán như: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số, bài toán liên quan đến rút về đơn vị ….
7.4. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
7.4.1. Thực trạng của việc dạy và học giải toán có lời văn trong trường tiểu học hiện nay
Năm học 2019 – 2020 nhà trường có 994 học sinh gồm 28 lớp. Trong đó khối lớp Ba có 5 lớp. Cơ sở vật chất nhà trường đã được đầu tư đầy đủ và khá khang trang với đầy đủ các phòng học. Đặc biệt là khung cảnh sư phạm ở đây thật tốt, đảm bảo là ngôi trường “ Xanh, sạch, đẹp” với những bồn hoa cây cảnh quanh năm xanh mát, thắm tươi…
Đội ngũ giáo viên đủ về số lượng đạt chuẩn và trên chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ lại nhiệt tình có lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tụy trong công việc. Đặc biệt BGH luôn có sự chỉ đạo sát sao kịp và đúng đắn trong mọi hoạt động của nhà trường.
Học sinh chủ yếu là con em nông thôn trong xã có đạo đức tốt cần cù trong học tập, phụ huynh luôn quan tâm đến việc học tập của học sinh.
Hơn năm qua nhà trường luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và đạt nhiều thành tích cao góp phần vào thành tích chung của huyện nhà.
B. Thực trạng dạy và học toán trong trường hiện nay.
a. Thuận lợi
* Nhà trường:
Công tác chỉ đạo chuyên môn của BGH luôn sát sao, nhà trường luôn coi trọng việc dạy đúng và đủ các môn học là cần thiết trong việc phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Bởi vậy, đã kịp thời như tổ chức các chuyên đề cấp tổ, cấp trường về các môn học nói chung và Toán nói riêng để giáo viên trao đổi học tập kinh nghiệm cũng như phương pháp của đồng nghiệp.
Trong rất nhiều các hoạt động của nhà trường, Ban giám hiệu luôn lấy việc đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm.
Trong công tác dạy học, nhà trường luôn lấy học sinh làm trung tâm, luôn khích lệ giáo viên áp dụng các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Trong đó môn toán là môn được cả giáo viên và học sinh trong trường ưu ái đầu tư thời gian và trí tuệ nhiều nhất.
* Giáo viên
Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, vững vàng về chuyên môn lại được trang bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học giúp giáo viên có thể tìm kiếm nhiều thông tin bổ ích hỗ trợ cho các bài giảng của mình sinh động hơn, hấp dẫn hơn.
Giáo viên trong trường luôn nhận thức được vai trò của việc trong việc giáo dục toàn diện học sinh đặc biệt là giúp các em có kiến thức toán học vững vàng để làm nền tảng cho bậc học sau. Bởi vậy giờ dạy Toán luôn là mối quan tâm của giáo viên trong trường.
* Học sinh:
Học sinh trong trường chủ yếu là con em nông thôn, ngoan , chăm chỉ nên các em có rất nhiều cố gắng trong học tập. Bên cạnh đó, các em cũng rất hiếu động, thích được tìm tòi, khám phá; có khả năng trực quan nhạy bén.
Xét về mặt tâm lí học sinh Tiểu học luôn muốn được khẳng định mình trước bạn bè, thầy cô, thích được khen do vậy đa phần các em chăm học, ham tìm tòi khám phá kiến thức.
- Giải bài toán có lời văn các em đã được làm quen ở các lớp 1, 2 vì thế các em đã có tiền đề cho việc học giải toán có lời văn ở lớp 3.
- Trong chương trình lớp 3, toán có lời văn chủ yếu là các bài vận dụng các kiến thức vào việc giải bài toán có nhiều ứng dụng trong thực tế. Các em mới làm quen một số dạng mới: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, bài toán liên quan đến rút về đơn vị… Các dạng bài mới này hầu hết sau tiết lý thuyết giáo viên có thể rút ra được các bước giải giúp học sinh nắm vững và vận dụng thành thạo vào dạng toán đó.
* Nhà trường
Do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, kinh phí hạn hẹp nên việc mua sắm đồ dùng phục vụ dạy học còn hạn chế.
* Giáo viên:
Đồ dùng dạy học còn chưa đầy đủ và phong phú . Đặc biệt trang thiết bị phục vụ môn Toán còn ít.
Mặc dù nhận thức đúng vị trí vai trò của môn Toán, giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng vẫn phải bám sát theo sách hướng dẫn vì sợ bị. Các hình thức dạy học còn chưa tổ chức phong phú, đa dạng. Chính vì vậy học sinh không hứng thú trong các giờ học toán và đặc biệt không trau dồi được cho mình những kĩ năng giải toán .
Bảng thống kê một số phương pháp dạy học màgiáo viên thường sử dụng khi dạy học sinh giải toán có lời văn
Phương pháp | Thường xuyên | Thỉnh thoảng | Chưa bao giờ | |||
Số lượng | Tỉ lệ ( %) | Số lượng | Tỉ lệ ( %) | Số lượng | Tỉ lệ ( %) | |
Thuyết trình | 5/5 GV | 100 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Vấn đáp | 5/5 GV | 100 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Thảo luận nhóm | 3/5 GV | 40 | 2/5 GV | 60 | | |
Nêu vấn đề | 0 | 0 | 4/5 GV | 80 | 1 GV | 20 |
* Học sinh
- Cũng bởi học sinh là con em nông thôn nên việc đầu tư về thời gian, điều kiện học tập cũng như người hướng dẫn tại nhà còn hạn chế.
- Do tâm lí chủ quan thường coi toán là dễ nên một số em chưa dành nhiều thời gian để học. Trong khi đó, lên lớp 3 các em được học nhiều dạng toán có lời văn mới, đặc biệt các em phải chuyển từ bài toán đơn ( giải bằng một phép tính) sang bài toán hợp ( giải bằng nhiều phép tính).
- Do các em còn mê phim truyện, trò chơi điện tử,… dẫn đến việc các em lười học, sao nhãng học hành, ít học bài, ít đọc sách.
Kết luận chung: Nhìn chung, dạy và học toán nói chung và dạy giải toán có lời văn nói riêng của trường tôi mặc dù được quan tâm nhiều song vẫn chưa phát huy được hết ý nghĩa thực chất của nó đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chưa được đồng bộ, thống nhất, chưa có chiều sâu.
7.5. Một số biện pháp nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3
BIỆN PHÁP 1: NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH
Trong chương trình lớp 3, toán có lời văn ngoài các bài tập vận dụng sau các kiến thức khác thì được biên soạn thành các tiết học, cụ thể từng loại tiết học như sau
* Tiết dạy học bài mới:
Trong tiết dạy này, phần bài học thường không nêu các kiến thức có sẵn mà thường chỉ nêu các tình huống có vấn đề (bằng hình ảnh hoặc câu gợi mở vấn đề) để học sinh dựa vào đó mà thực hiện các hoạt động mà các em tự phát hiện, sau đó giải quyết vấn đề và tự xây dựng kiến thức mới (theo hướng dẫn của giáo viên). Phần thực hành thường là 2 đến 3 bài tập vận dụng kiến thức mới vừa học. Các bài tập ở tiết dạy học bài mới thường là các bài tập luyện tập trực tiếp, đơn giản giúp học sinh nắm được bài học mới bước đầu có kĩ năng vận dụng kiến thức mới học. Khi dạy thực hành trước tiên giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ bài toán, hướng dẫn tóm tắt bài toán, lập kế hoạch giải bài toán rồi mới yêu cầu học sinh giải bài toán đó.
* Tiết luyện tập :
Mục đích của tiết luyện tập là giúp học sinh vận dụng, củng cố, nâng cao kiến thức đã được hình thành ở tiết lý thuyết. Mỗi tiết thường gồm từ 3 - 4 bài tập sắp xếp theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp. Dựa vào mục tiêu kiến thức kỹ năng cần đạt của bài, giáo viên hướng dẫn học sinh các bài tập thật tỷ mỉ giống như phần thực hành của tiết lý thuyết hình thành kiến thức tránh tình trạng chạy theo số lượng bài tập.
1.2. Thống kê các dạng toán có lời văn trong chương trình
Trong chương trình lớp 3, toán có lời văn được đan xen tương ứng với các kiến thức khác của năm học để các em có thể vận dụng kiến thức đó vào giải toán. Cụ thể toán có lời văn được phân thành hai loại bài.
Bài toán có lời văn | |
Các bài toán đơn (giải bằng một phép tính) | Các bài toán hợp (giải bằng nhiều phép tính) |
1.Giải bằng phép cộng | 1. Bài toán giải bằng 2 phép tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản |
2.Giải bằng phép trừ | 2. Bài toán giải bằng 2 phép tính chia, nhân liên quan đến rút về đơn vị |
3.Giải bằng phép nhân | 3. Bài toán giải bằng 2 phép chia liên quan đến rút về đơn vị. |
4.Giải bằng phép chia | |
* Các bài toán đơn:
a. Giải bằng phép cộng ( 2 kiểu bài )
+ Bài toán tìm tổng hai số
Ví dụ : Thùng dầu thứ nhất đựng được 125 lít nước, thùng hai đựng được 135 lít nước. Hỏi cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít nước?
+ Bài toán nhiều hơn một số đơn vị .
Ví dụ : Em có 13 cái nhãn vở. Anh có nhiều hơn em 9 cái nhãn vở. Hỏi anh có bao nhiêu cái nhãn vở?
b. Giải bằng phép trừ ( 4 kiểu bài )
+ Bài toán bớt một số đơn vị ở một số
Ví dụ : Một cửa hàng có 428 mét vải, đã bán được 163 mét vải. Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu mét vải ?
+ Bài toán tìm số hạng chưa biết
Ví dụ : Một đội đồng diễn gồm 165 người, trong đó có 63 nữ. Hỏi đội đồng diễn đó có bao nhiêu nam?
+ Bài toán ít hơn một số đơn vị
Ví dụ : Khối lớp 2 có 113 học sinh, khối lớp 5 có ít hơn khối lớp 2 là 48 học sinh. Hỏi khối lớp 5 có bao nhiêu học sinh?
+ Bài toán so sánh hai số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị
Ví dụ : Lớp 3B có 19 bạn nam và 11 bạn nữ. Hỏi số bạn nam nhiều hơn số bạn nữ là bao nhiêu bạn?
c. Giải bài toán bằng phép nhân ( 2 kiểu bài )
+ Bài toán tìm tích
Ví dụ : Trong phòng ăn có 8 cái bàn, cứ mỗi bàn xếp 6 cái cốc. Hỏi phòng ăn có tất cả bao nhiêu cái cốc?
+ Bài toán gấp một số lên nhiều lần
Ví dụ : An gấp được 7 ngôi sao, Minh gấp được nhiều gấp 3 lần An.Hỏi Minh gấp được bao nhiêu ngôi sao?
d. Giải bài toán bằng phép chia ( 7 kiểu bài )
+ Chia thành các phần bằng nhau
Ví dụ : Có 24 cái kẹo xếp vào 4 cái hộp. Hỏi mỗi hộp có bao nhiêu cái kẹo?
+ Chia thành các nhóm ( Ngược lại với bài toán chia thành các phần bằng nhau )
Ví dụ : Một sợi dây đồng dài 24 cm được cắt thành các đoạn bằng nhau mỗi đoạn 6 cm. Hỏi cắt được mấy đoạn như thế?
+ Bài toán tìm một trong các phần bằng nhau của một số
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Ví dụ : Một cửa hàng có 40 mét vải và đã bán được số vải đó. Hỏi cửa hàng đã bán được bao nhiêu mét vải?
+ Bài toán giảm đi một số lần
Ví dụ : Một công việc nếu làm bằng tay hết 30 giờ, còn làm bằng máy thì thời gian giảm đi 6 lần. Hỏi công việc đó làm bằng máy hết bao nhiêu giờ?
+ Bài toán so sánh số lớn gấp mấy lần số bé
Ví dụ : Ngăn trên có 28 quyển sách, ngăn dưới có 7 quyên sách. Hỏi ngăn trên có số sách gấp mấy lần ngăn dưới?
+ Bài toán so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn ( Giải tương tự như kiểu toán trên )
Thêm phần kết luận vậy số sách ở ngăn dưới bằng số sách ở ngăn trên.
+ Bài toán chia có dư
Ví dụ : Có 25 mét vải may mỗi bộ quần áo hết 4 mét. Hỏi 25 mét may được bao nhiêu bộ như thế và thừa mấy mét vải?
* Các bài toán hợp
a. Một số bài toán về mối quan hệ trực tiếp và đơn giản giữa các đại lượng được giải bằng hai phép tính (Bài toán giải bằng hai phép tính)
Ví dụ 1: Vườn nhà Lan có 16 cây cam, số cây quýt nhiều hơn cam là 9 cây. Hỏi nhà Lan có tất cả bao nhiêu cây?
Ví dụ 2 : Một cửa hàng có 60 kg gạo. Buổi chiều đã bán được số gạo đó. Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu kg gạo?
b. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ( 2 kiểu bài )
+ Bài toán giải bằng hai phép chia, nhân liên quan đến rút về đơn vị
Ví dụ : Có 24 cái bánh xếp đều trong 4 hộp. Hỏi 3 hộp như thế có bao nhiêu cái bánh?
+ Bài toán giải bằng hai phép chia liên quan đến rút về đơn vị
Ví dụ : Có 40 kg gạo đựng đều trong 5 túi. Hỏi 24 kg gạo đựng đều trong mấy túi như thế?
BIỆN PHÁP 2: TÌM HIỂU CÁC SAI LẦM THƯỜNG GẶP VÀ ĐỀ RA CÁCH KHẮC PHỤC SAI LẦM
1. Một số sai lầm thường gặp của học sinh khi giải toán có lời văn
1.1. Các bài toán đơn .
* Sai lầm trong giải bài toán so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn.
Ví dụ: Một con lợn cân năng 42 kg, một con dê cân nặng 6 kg. Hỏi con dêcân nặng bằng một phần mấy con lợn?
Lời giải sai:
Con dê nặng bằng một phần con lợn là :
42 : 6 = 7 (kg)
Đáp số :
* Sai lầm trong bài toán chia có dư.
Ví dụ : Một lớp học có 33 học sinh, phòng học của lớp đó chỉ có loại bàn 2 chỗ ngồi. Hỏi cần ít nhất bao nhiêu bàn học như thế?
Lời giải sai:
Cần ít nhất số bàn học là:
32 : 2 = 16 ( dư 1)
Đáp số 16 bàn dư 1 học sinh
* Sai lầm khi giải bài toán liên quan đến đại lượng ( tiền Việt Nam)
Ví dụ : Giá tiền một bì thư là 200 đồng, giá tiền một tem thư là 800 đồng. Hỏi giá tiền một bì thư và một tem thư là bao nhiêu?
Lời giải sai:
Một bì thư và một tem thư có giá tiền là :
800 + 200 = 1000 (tiền)
Đáp số : 1000 tiền
* Sai lầm khi giải bài toán nhiều hơn một số đơn vị
Ví dụ: Khối lớp 3 có 68 học sinh và ít hơn số học sinh của khối lớp bốn là 21 bạn. Hỏi khối lớp bốn có bao nhiêu học sinh ?
Lời giải sai:
Khối lớp bốn có số học sinh là:
68-21=47(học sinh)
Đáp số :47 học sinh
Tiểu kết:
Khi giải bài toán đơn học sinh mắc sai lầm chủ yếu là do các em chưa xác định được cái đã cho,cái cần tìm của bài toán,chưa xác định được loại toán,dạng toán dẫn đến chưa có lời giải ,phép tính thích hợp
1.2.Các bài toán hợp
* Sai lầm khi giải bài toán bằng hai phép tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản:
Ví dụ 1: Anh có 15 viên bi, em ít hơn anh 7 viên bi. Hỏi cả hai anh em có bao nhiêu viên bi ?
Lời giải sai:
Cả hai anh em có số viên bi là:
15+7=22 (viên bi)
Đáp số : 22 viên bi
Ví dụ 2: Một thùng đựng 24 lít nước mắm, lấy ra số nước mắm đó.Hỏi trong thùng còn lại bao nhiêu lít nước mắm ?
Lời giải sai:
Trong thùng còn lại số lít nước mắm là:
24 : 3 = 8 (lít)
Đáp số : 8 lít
Tiểu kết :
Như vậy với bài toán giải bằng hai phép tính thì hầu hết học sinh mắc phải sai lầm là giải bằng một phép tính và nguyên nhân chủ yếu là học sinh chưa đọc kỹ đề bài, chưa biết phân tích bài toán.
* Sai lầm về giải toán liên quan đến rút về đơn vị ( Kiểu bài giải bằng hai phép tính chia )
Ví dụ : Một người đi xe trong 12 phút đi được 3 km. Hỏi nếu cứ đi xe như vậy trong 28 phút thì đi được mấy km ?
Lời giải sai:
Một phút đi được số km là:
12 : 3 = 4 (km)
Trong 28 phút đi được số km là :
28 : 4 = 7 (km)
Đáp số : 7 km
2. Cách khắc phục:
Từ những sai lầm của học sinh tôi đã tìm hiểu nguyên nhân, từ đó tìm ra một số cách khắc phục, nâng cao chất lượng cho học sinh khi học dạng toán giải toán có lời văn cụ thể như sau:
2.1.Các bài toán đơn .
*Trong giải bài toán so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn.
Ví dụ: Một con lợn cân nặng 42 kg, một con dê cân nặng 6 kg. Hỏi con dê cân nặng bằng một phần mấy con lợn?
Lời giải sai:
Con dê nặng bằng một phần con lợn là :
42 : 6 = 7
Đáp số :
Phân tích sai lầm :
Tuy đáp số không sai nhưng học sinh đã sai ở lời giải . Mắc phải sai lầm này là do giáo viên chưa khắc sâu kiến thức, cách giải, các bước giải bài toán.Học sinh chưa đọc kỹ đề bài, máy móc áp dụng cách giải toán có lời văn mà lớp 1, lớp 2 đã được học- dùng câu hỏi để viết thành câu trả lời sau khi bỏ từ hỏi.
Cách khắc phục:
Khi gặp bài giải sai này của học sinh tôi hướng dẫn lại như sau:
+Yêu cầu học sinh đọc kĩ lại đề bài, xác định cái đã cho, cái cần tìm của bài toán
HS nêu: Cho biết: Con lợn nặng 42 kg
Con dê nặng 6 kg
Hỏi :Con dê nặng bằng một phần mấy con lợn ?
+Yêu cầu học sinh nêu tên gọi của dạng toán này ?
HS nêu: Bài toán thuộc dạng so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn
+Yêu cầu học sinh xác định số lớn, số bé
HS: Số lớn: 42
Số bé: 6
+Hỏi: Muốn giải bài toán so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn ta làm thế nào?
HS: Bước 1:Ta so sánh số lớn gấp mấy lần số bé(Thực hiện phép chia: Số lớn:Số bé)
Bước 2:Kết luận số bé bằng một phần mấy số lớn.
Sau khi hướng dẫn học sinh của tôi đã có lời giải đúng:
Con lợn cân nặng gấp con dê một số lần là:
42 : 6 = 7 ( lần )
Vậy con dê nặng bằng con lợn.
Đáp số :
* Trong bài toán nhiều hơn một số đơn vị
Ví dụ: Khối lớp 3 có 68 học sinh và ít hơn số học sinh của khối lớp bốn là 21 bạn. Hỏi khối lớp bốn có bao nhiêu học sinh ?
Lời giải sai:
Khối lớp bốn có số học sinh là:
68-21= 47(học sinh)
Đáp số :47 học sinh
Phân tích sai:
Bài toán cho biết khối lớp 3 có số học sinh ít hơn khối lớp 4vậy ngược lại tức là lớp 4 có số học sinh nhiều hơn lớp 3, nếu học sinh làm như vậy thì nghĩa là lớp 3 có nhiều hơn lớp 4.Mắc phải sai lầm này là do học sinh chủ quan không đọc kĩ bài toán cứ thấy ít hơn là làm tính trừ.
Cách khắc phục:
- Tôi yêu cầu học sinh đọc thật kĩ lại bài toán, xác định cái đã cho, cái cần tìm của bài toán.
(Học sinh xác định: Khối lớp 3 có 68 học sinh, ít hơn số học sinh của khối lớp bốn là 21 bạn. Hỏi: Khối lớp bốn có bao nhiêu học sinh ? )
Giáo viên hỏi : Lớp 3 ít hơn lớp 4 vậy khối lớp 4 như thế nào so khối lớp 3?
Học sinh : Khối 4nhiều hơn khối 3
Yêu cầu học sinh xác định dạng toán
(Đến đây học sinh sẽ xác định được đây là bài toán về nhiều hơn một số đơn vị)
Giáo viên hỏi : Để giải bài toán về nhiều hơn ta thực hiện tính gì ?
Học sinh : Ta thực hiện tính cộng
Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài. Kết quả học sinh đã làm đúng
Lời giải đúng
Khối lớp bốn có số học sinh là:
68+21=89(học sinh)
Đáp số :89 học sinh
2.2. Các bài toán hợp.
*Khi giải bài toán bằng hai phép tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản
Ví dụ 1: Anh có 15 viên bi, em ít hơn anh 7 viên bi. Hỏi cả hai anh em có bao nhiêu viên bi ?
Lời giải sai:
Cả hai anh em có số viên bi là:
15+7=22 (viên bi)
Đáp số : 22 viên bi
Phân tích sai lầm:
Đây là bài toán giải bằng hai phép tính song học sinh chỉ thực hiện có một phép tính nên dẫn đến sai hoàn toàn.
Nguyên nhân :
+/ Lớp 1, lớp 2 các em chỉ học giải bài toán đơn ( giải bằng một bước tính), có thói quen dùng câu hỏi làm câu trả lời.
+/ Do giáo viên chưa khắc sâu được kiến thức cho học sinh, phương pháp truyền thụ chưa phù hợp với các em dẫn đến học sinh chưa đọc kỹ đề bài, chưa biết phân tích cái đã cho, cái cần tìm của bài toán.
Cách khắc phục:
Giáo viên : Yêu cầu học sinh đọc kỹ bài toán, xác định bài toán hỏi gì?
(Bài toán hỏi cả hai anh em có bao nhiêu viên bi)
Giáo viên hỏi:
Số viên bi của anh biết chưa ?
Số viên bi của em đã biết chưa?
(Học sinh cần xác định số viên bi của anh đã biết còn của em chưa biết)
Giáo viên : Để tính số viên bi của em ta làm như thế nào ?
Học sinh : Lấy 15 – 7 = 8 (viên bi)
Giáo viên : Để tính số viên bi của hai anh em ta làm thế nào ?
Học sinh : 15 + 8 = 23 (viên bi)
Từ cách hướng dẫn chi tiết như vậy học sinh đã sửa được sai cho bài của mình
Lời giải đúng:
Em có số viên bi là:
15 – 7 = 8 (viên bi)
Cả hai anh em có số viên bi là:
15+8=23 (viên bi)
Đáp số : 23 viên bi
* Khi giải bài toán thực hiện bằng hai phép chia liên quan đến rút về đơn vị
Ví dụ : Một người đi xe trong 12 phút đi được 3 km. Hỏi nếu cứ đi xe như vậy trong 28 phút thì đi được mấy km ?
Lời giải sai:
Một phút đi được số km là:
12 : 3 = 4 (km)
Trong 28 phút đi được số km là :
28 : 4 = 7 (km)
Đáp số : 7 km
Phân tích sai lầm :
Đáp số 7 km là không sai nhưng học sinh đã sai ở lời giải và đánh số trong lời giải thứ nhất. Bài toán cho biết 12 phút mới đi được 3 km. Vậy 1 phút không thể đi được 4 km. Ở đây học sinh đã áp dụng quá máy móc cứ giải bằng hai phép tính chia, chưa nắm rõ bước rút về đơn vị .
Cách khắc phục:
Giáo viên : Yêu cầu học sinh đọc kỹ lại bài giải để học sinh tìm ra cái sai
Học sinh : Sai vì một phút đi được 4 km và 28 phút chỉ đi được 7 km
Giáo viên : Yêu cầu học sinh đọc kỹ lại bài toán và tóm tắt bài toán
Học sinh : Tóm tắt:
12 phút : 3 km
28 phút : … km ?
Giáo viên : Gợi ý học sinh: Muốn tính xem 28 phút đi được mấy km ? thì phải tìm xem 1 km đi hết mấy phút
Học sinh chọn phép tính 12 :3 =4 (phút)
Giáo viên : 1km đi hết 4 phút, vậy để tính 28 phút đi được mấy km ta làm thế nào ?
Học sinh : Lấy 28 : 4 = 7 (km)
Lời giải đúng :
Một km đi trong số phút là:
12 : 3 = 4 (phút)
28 phút đi được số km là :
28 : 4 = 7 (km)
Đáp số : 7 km
BIỆN PHÁP 3: XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN
Để giải các bài toán có lời văn thông thường thực hiện theo các bước sau:
* Bước 1: Đọc kĩ đề toán.
* Bước 2: Tóm tắt đề toán.
* Bước 3: Phân tích bài toán.
* Bước 4: Viết bài giải.
* Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau:
Bước 1. Đọc kĩ đề toán: Yêu cầu học sinh đọc ít nhất 2-3 lần đề toán, nhằm giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số.
Bước 2. Phân tích - Tóm tắt đề toán: Mục đích của "tóm tắt" là phân tích đề toán để làm rõ giả thiết (bài toán cho biết gì ? và kết luận bài toán hỏi gì? ) của bài toán.Do vậy, dạy học sinh tóm tắt bài toán trước khi giải là việc rất cần thiết. Tuy nhiên, không nhất thiết bắt buộc học sinh phải làm phần “tóm tắt" vào phần trình bày bài giải . Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải Toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh:
- Cách 1: Tóm tắt bằng chữ.
- Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu.
- Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
- Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng.
- Cách 5: Tóm tắt bằng lưu đồ.
- Cách 6: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven.
- Cách 7: Tóm tắt bằng kẻ ô.
Với mỗi dạng toán giáo viên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách tóm tắt phù hợp.
Bước 3. Phân tích mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho với kết luận để tìm ra cách giải bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường:
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn tìm cái đó ta cần biết gì?
- Cái này biết chưa?
- Còn cái này thì sao?
Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán.
Bước 4. Trình bày lời giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp.
Bước 5. Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải Toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra , đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải Toán va phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải Toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
- Đọc lại lời giải.
- Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
- Thử lại các kết quả vừa tính từ bước giải đầu tiên.
- Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
Tuy phương pháp giải một bài toán có lời văn thường gần giống nhau song chúng ta tránh áp dụng máy móc mà cần linh hoạt tùy theo từng dạng toán
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
* Các bài toán đơn :
- Bài toán tìm tổng hai số:
Ví dụ : Anh có 8 nhãn vở, em có 6 nhãn vở. Hỏi cả hai anh em có mấy nhãn vở ?
Phương pháp giải:
Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài và tóm tắt bài toán
Tóm tắt :
Anh : 8 nhãn vở
Em : 6 nhãn vở
Cả hai anh em : ? nhãn vở
Phân tích:
- Bằng các câu hỏi gợi mở giáo viên giúp học sinh nhận ra :Bài toán hỏi cả hai anh em tức là số nhãn vở của anh và của em, từ đó xác định tên gọi của bài toán(bài toán tìm tổng hai số) ,xác định phép tính cần thực hiện là tính cộng.
Bải giải:
Cả hai anh em có số nhãn vở là
8 + 6 = 14 ( nhãn vở)
Đáp số : 14 nhãn vở
- Bài toán tìm một trong các phần bằng nhau của một số:
Ví dụ : Lan có 12 cái kẹo Lan cho em số kẹo đó. Hỏi Lan cho em bao nhiêu cái kẹo ?
Phương pháp hướng dẫn:
- Trước tiên cần yêu cầu học sinh đọc kĩ bài toán,xác định cái đã cho, cái cần tìm.
- Giáo viên hỏi để học sinh trả lời: “ Làm thế nào để tìm của 12 cái kẹo? ” (Lấy 12 cái kẹo chia thành 3 phần bằng nhau,mỗi phần là số kẹo cần tìm).Lúc này giáo viên cũng có thể dùng đồ dùng trực quan hoặc hình vẽ, sơ đồ để học sinh hiểu rõ hơn.
- Cho một số học sinh nhắc lại : “ Muốn tìm của 12 cái kẹo ta chia 12 cái kẹo thành 3 phần bằng nhau, mỗi phần bằng nhau đó chính là số kẹo”.
Học sinh sẽ trình bày bài giải:
Lan cho em số kẹo là:
12 : 3 = 4 (cái kẹo)
Đáp số :4 cái kẹo
Tương tự giáo viên hỏi để học sinh trả lời : “ Muốn tìm của 12 cái kẹo ta làm thế nào? ” ( HS: Lấy 12 cái kẹo chia thành 4 phần bằng nhau 12 : 4 =3 cái kẹo ,mỗi phần bằng nhau (3 cái kẹo ) chính là của số kẹo.
Từ đó gợi ý học sinh tự nhận ra khi giải bài toán tìm một trong các phần bằng nhau của một số ta lấy số đó chia cho số phần bằng nhau.
- Bài toán so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn
Ví dụ : Ngăn trên có 24 quyển sách, ngăn dưới có 6 quyển sách. Hỏi số sách ở ngăn dưới bằng một phần mấy số sách ở ngăn trên?
Tóm tắt :
Ngăn trên : 24 quyển
Ngăn dưới : 6 quyển
Hỏi : Số sách ngăn dưới bằng một phần mấy số sách ngăn trên ?
Phương pháp hướng dẫn:
Giáo viên hướng dẫn qua các câu hỏi:
Để biết số sách ở ngăn dưới bằng một phần mấy số sách ở ngăn trên ta cần biết gì? (biết số sách ở ngăn trên gấp mấy lần số sách ở ngăn dưới ) Yêu cầu học sinh nêu tên gọi của bài toán (bài toán so sánh số lớn gấp mấy lần số bé ) Nêu các bước giải bài toán dạng này:
( thực hiện phép chia : Số lớn chia số bé để tính xem số lớn gấp mấy lần số bé , rồi thực hiện kết luận theo yêu cầu đề bài ).
Bài giải :
Số sách ở ngăn trên gấp số sách ở ngăn dưới một số lần là:
24 : 6 = 4 (lần )
Vậy số sách ở ngăn dưới bằng số sách ở ngăn trên
Đáp số :
Tiểu kết :
Các bài toán đơn ( giải bằng một phép tính) thường đơn giản nhưng lại rất quan trọng, hỗ trợ rất lớn cho học sinh khi giải các bài toán hợp, bởi thực tế khi giải các bài toán hợp muốn giải được đều phải đưa về bài toán đơn. Nếu học sinh nắm vững phần này thì việc giải các bài toán hợp sẽ trở nên dễ dàng và chính xác hơn. Vì vậy trong khi dạy bài toán đơn ngoài việc sử dụng đường lối chung như trên thì giáo viên cần giúp học sinh xác định được :
- Bài toán cần sử dụng phép tính nào?
- Bài toán có tên gọi là gì?
Làm tốt hai việc này không những giúp học sinh giải đúng mà còn giúp học sinh biết chuyển một bài toán hợp thành nhiều bài toán đơn dễ dàng.
* Các bài toán hợp.
- Lên lớp 3 các em được làm quen với dạng toán hợp (giải bằng nhiều bước tính-Chủ yếu là hai bước tính).Thực chất toán hợp chính là sự kết hợp của nhiều bài toán đơn. Do không nắm vững toán đơn nên học sinh thường lúng túng khi đứng trước một bài toán hợp có rất nhiều em mắc phải những sai lầm ( như tôi đã nói ở phần trên).
Ví dụ 1: Lan có 8 cái kẹo, Minh có số kẹo nhiều hơn Lan 7 cái. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu cái kẹo ?
Phương pháp giải:
Bước 1:Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài toán
Bước 2:Yêu cầu học sinh trả lời: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì ?
(Bài toán cho biết Lan có 8 cái kẹo, Minh có nhiều hơn Lan 7 cái.Bài toán hỏi cả hai bạn có bao nhiêu cái kẹo?)
Bước 3:Yêu cầu học sinh tóm tắt bài toán
Bước 4: Giải bài toán
Phân tích:
- Muốn tìm số kẹo của hai bạn ta làm như thế nào?
(Lấy số kẹo của Lan + số kẹo của Minh)
- Số kẹo của Lan biết chưa?(rồi)
- Số kẹo của Minh biết chưa?(chưa)
- Muốn tính số kẹo của Minh ta làm như thế nào?
(Lấy số kẹo của Lan + 7 )
- Hướng dẫn học sinh lập thành sơ đồ khối
Học sinh viết:
Hai bạn
Lan + Minh
Lan + (Lan+7)
->Rút ra bước giải:
Bước 1: Tính số kẹo của Minh = Số kẹo của Lan +7
Bước 2: Tính số kẹo của cả hai bạn = Số kẹo của Lan + số kẹo của Minh vừa tìm được
Bài giải:
Số kẹo của Minh là:
8 + 7 = 15(cái)
Số kẹo của cả hai bạn là:
8 + 15 = 23 (cái)
Đáp số : 23 cái
Ví dụ 2:
Nhà bác An nuôi 40 con thỏ. Bác đã bán đi số thỏ đó. Hỏi nhà bác An còn lại bao nhiêu con thỏ?
Phương pháp:
Bước 1: Đọc kĩ đề bài toán
Bước 2: Tìm cái đã cho ,cái cần tìm trong bài toán
Bước 3: Tóm tắt
Bước 4: Thiết lập các bước giải:
Trong bước này giáo viên dùng các câu hỏi gợi mở để hướng dẫn học sinh lập sơ đồ.
Số thỏ còn lại
Số thỏ có - Số thỏ đã bán
Số thỏ có - (số thỏ có:8)
- Cho học sinh tìm ra bước giải bài toán:
Bước 1:Tính số con thỏ đã bán
= Số thỏ có : 8
Bước 2:Tính số con thỏ còn lại
= Số con thỏ có - Số con thỏ đã bán vừa tìm được
Bài giải:
Bác An bán đi số con thỏ là:
40 : 8 = 5 (con)
Bác An còn lại số con thỏ là:
40 – 5 = 35 (con)
Đáp số : 35 con
Ví dụ 3: Bài toán giải bằng hai phép chia liên quan đến rút về đơn vị.
Khi dạy kiểu bài 2 này, tôi cũng dạy các bước tương tự kiểu bài 1. Song để học sinh dễ nhận dạng, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài, khi kiểm tra bài cũ, tôi đưa đề bài lập lại của kiểu bài 1: “ Có 35 lít mật ong rót đều vào 7 can . Hỏi 2 can đó có bao nhiêu lít mật ong”. Mục đích là vừa kiểm tra, củng cố phương pháp giải ở kiểu bài 1, cũng là để tôi dựa vào đó hướng các em tới phương pháp giải ở kiểu bài 2 (giới thiệu bài).
Bài toán ở kiểu bài 2 có dạng sau:
Có 35 lít mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có 10 lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế?
- Cách tổ chức, hướng dẫn học sinh cũng như ở kiểu bài 1.
- Khi củng cố, học sinh nêu được ở bước 1 là bước rút về đơn vị và các bước thực hiện bài giải chung của kiểu bài 2 này.
+ Bước 1:: Tìm giá trị 1 đơn vị ( giá trị 1 phần). ( đây là bước rút về đơn vị) . ( phép chia).
+ Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ( phép chia).
Sau mỗi bài tập, chúng ta lại củng cố lại một lần, các em sẽ nắm chắc phương pháp hơn. Đặc biệt khi học xong kiểu bài 2 này, các em dễ nhầm với cách giải ở kiểu bài 1. Cho nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh giá kết quả bài giải ( thử lại theo yêu cầu của bài).
Ví dụ: Các em đặt kết quả tìm được vào phần tóm tắt của bài các em sẽ thấy được cái vô lí khi thực hiện sai phép tính của bài giải :
Từ đó các em nắm chắc phương pháp giải kiểu bài 2 tốt hơn, có kĩ năng , kĩ xảo tốt khi giải Toán.
CÁC | KIỂU BÀI 1 | KIỂU BÀI 2 |
1 | - Tìm giá trị của 1 phần: ( phép chia) (Đây là bước rút về đơn vị) | - Tìm giá trị của 1 phần: ( phép chia) (Đây cũng là bước rút về đơn vị) |
2 | - Tìm giá trị của các phần: - Lấy giá trị 1 phần nhân với số phần (phép nhân) | - Tìm số phần. (Phép chia) Lấy giá trị các phần chia cho giá trị 1 phần. |
Lưu ý: Khi hướng dẫn tách thành các bài toán đơn, giáo viên cần để cho học sinh nêu tên gọi của bài toán đơn đó.
BIỆN PHÁP 4. KÍCH LỆ SỰ HỨNG THÚ HỌC TẬP
Học sinh tiểu học có đặc điểm chung là thích được khen hơn chê, ta cần hạn chế chê các em trong học tập, rèn luyện . Đối với những em học yếu hơn, những em rụt rè,nhút nhát, tôi thường xuyên gọi các em đứng lên trả lời hoặc gọi lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một chút tiến bộ là tôi tuyên dương các em trước lớp ngay, để từ đó các em sẽ mạnh dạn, tự tin hơn và cố gắng tiến bộ để được cô khen nhiều hơn. Riêng với những em học khá, giỏi trong lớp, tôi chỉ khen ngợi khi có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt.Nhờ sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh thi đua trong học tập.
Bên cạnh đó, việc áp dụng đan xen các trò chơi học tập vào giữa các tiết học cũng là một việc rất quan trọng giúp học sinh có hứng thú hơn trong học tập, tạo cho các em niềm mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho các em nghỉ giải lao bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học….
Trên đây là các phương pháp hướng dẫn các em học sinh lớp 3 giải tốt dạng các bài toán có lời văn mà tôi đã đúc rút được qua quá trình giảng dạy. Tôi tin rằng nếu tất cả giáo viên chúng ta làm được như vậy thì các em sẽ biết cách giải dạng toán này tốt hơn, đúng hơn. Các em sẽ có được tinh thần phấn khởi, tự tin và hào hứng hơn khi giải toán.
7.4.Kết quả đạt được
Để đảm bảo tính khách quan của quá trình thực nghiệm, tôi lựa chọn 2 lớp trong khối 3 tương đương nhau về trình độ để làm đối tượng thực nghiệm. Trong đó lớp thực nghiệm là lớp 3C ( tổng số 32 học sinh)và lớp đối chứng là lớp 3A( tổng số 30 học sinh).
Với lớp 3A giáo viên vẫn áp dụng các biện pháp như cũ bình thường, còn lớp 3C, tôi áp dụng các biện pháp đã đề xuất như trên trong quá trình dạy các tiết toán nhất là khi dạy các bài toán có lời văn. Sau thực nghiệm, tôi đã tiến hành kiểm tra để so sánh kết quả và rút ra kết luận
Dưới đây là bảng thống kê các kết quả kiểm tra đầu vào, đầu ra của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Bảng 1: Kết quả kiểm tra giải bài toán có lời văn của học sinh trước khi thực nghiệm
Kết quả Lớp | Số học sinh giải đúng | Số học sinh giải chưa đúng |
Lớp thực nghiệm ( 3B) | 25 = 73,5% | 9 = 26,5% |
Lớp đối chứng ( 3D) | 21= 60 % | 15 = 40% |
Bảng 2: Kết quả kiểm tra giải bài toán có lời văn của học sinh sau khi thực nghiệm
Kết quả Lớp | Số học sinh giải đúng | Số học sinh giải chưa đúng |
Lớp thực nghiệm( 3B) | 29 = 85,3% | 5 = 14,7% |
Lớp đối chứng ( 3D) | 26= 74,3 % | 9 = 25,7% |
- Từ sự tiến bộ của học sinh khi học dạng toán giải toán có lời văn thì kết quả học tập bộ môn toán cũng được nâng lên rõ rệt, cụ thể được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Kết quả kiểm tra cuối học kì I môn Toán
Kết quả Lớp | 9 + 10 | 7 + 8 | 5 + 6 | < 5 |
Lớp thực nghiệm ( 3B) | 27 = 79,4% | 5 = 14,7% | 2 = 5,9% | 0 |
Lớp đối chứng (3D) | 20 = 57,1 % | 9 = 25,7% | 5 = 14,3 % | 1 = 2,9% |
7.6.Các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán tại trường Tiểu học
- Có chính sách hợp lý đối với đội ngũ giáo viên
- Nâng cao trình độ của giáo viên (kiến thức và kĩ năng)
- Nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát
+ Để kiểm soát và giải quyết kịp thời những vướng mắc của giáo viên, BGH thì khâu kiểm tra, giám sát thật sự giữ vai trò quan trọng. Vì trong quá trình triển khai thực hiện, với môi trường, đối tượng học sinh và từng bài học cụ thể, sẽ nảy sinh nhiều vấn đề mà giáo viên cần phải xử lí. Do vậy, việc kiểm tra, giám sát, hỗ trợ giáo viên thường xuyên sẽ là một trong những điều kiện giúp cho dạy học Toán đạt hiệu quả cao hơn.
+ Giúp giáo viên kịp thời phát hiện, điều chỉnh những sai sót nảy sinh trong thực tế giảng dạy.
+ Quá trình dạy học cần phải được kiểm soát và đánh giá hiệu quả
- Xây dựng môi trường học tập thân thiện, lành mạnh, tích cực
+ Trong môi trường học tập thân thiện, tích cực người học sẽ được phát huy năng lực học tập của mình ở trạng thái tốt nhất. Do vậy, việc tạo một môi trường học tập thân thiện là rất cần thiết để giúp các em mạnh dạn, tự tin, hứng thú tham gia các hoạt động học tập, yêu thích đến lớp, đến trường.
+ Tạo không khí học tập vui tươi, nhẹ nhàng, gây hứng thú, lôi cuốn học sinh.
+ Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin thể hiện bản thân trước tập thể; yêu thích học tập, vui đến lớp, đến trường.
+ Trong quá trình dạy học, giáo viên cần quan tâm, hỗ trợ học sinh kịp thời. Gợi ý, hướng dẫn khi các em gặp khó khăn, tuyên dương, khen thưởng khi các em thực hiện đúng yêu cầu; phải tạo cơ hội cho tất cả các em đều được tham gia đầy đủ các hoạt động học tập, nhất là với học sinh yếu.
+ Giáo viên phải điều khiển, tổ chức các hoạt động dạy học linh hoạt và nhẹ nhàng, giáo viên có thời gian để quan sát, giúp đỡ học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập.
+ Ngoài ra, đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, sự quan tâm còn thể hiện ở việc hỗ trợ các em có đầy đủ dụng cụ học tập cần thiết. Nguồn hỗ trợ được vận động từ các mạnh thường quân hoặc trích từ nguồn xã hội hóa giáo dục của nhà trường.
+ Tổ chức đôi bạn cùng tiến, giúp học sinh xây dựng mối quan hệ bạn bè trong học tập và vui chơi. Giáo viên nên bố trí một học sinh khá giỏi cùng một học sinh trung bình, yếu để em học sinh giỏi có thể hỗ trợ học sinh yếu trong học tập.
- Dạy học phân hóa
+ Trong một lớp học luôn có sự chênh lệch về năng lực học tập giữa những học sinh với nhau, có em tiếp thu nhanh, thực hiện đúng và tốt các yêu cầu, có em lại tiếp thu khá chậm. Điều đó dẫn đến kết quả học tập là luôn có học sinh khá, giỏi, trung bình và yếu. Ngoài năng lực học tập cá nhân, học sinh học yếu là do nhiều nguyên nhân khác, chẳng hạn: các em không đi học chuyên cần do phải nghỉ học vì ốm , gia đình chưa thực sự quan tâm, học sinh còn lười học hay nghỉ ,…Với nhiều đối tượng học sinh khác nhau trong cùng một lớp như thế cần có những kế hoạch dạy học phân hóa để đưa học sinh yếu kém đạt chuẩn và giúp các đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển ở mức cao hơn.
+ Dạy học phân hóa (DHPH) là phương pháp dạy học theo từng nhóm đối tượng có sự khác biệt nhau về nhận thức. Nó được xem là một trong những giải pháp phổ biến hiện nay nhằm phát triển tối đa những khả năng của cá nhân trong quá trình học tập.
+ Dựa trên kết quả đánh giá, phân loại học sinh, giáo viên xây dựng kế hoạch, chọn lựa hình thức và phương pháp dạy học phù hợp từng đối tượng học sinh, có điều chỉnh, thay đổi theo từng giai đoạn tương ứng. Trong kế hoạch, cần thể hiện cụ thể nội dung, cách thức và thời gian thực hiện.
+ Để kế hoạch dạy học phân hóa mang tính khả thi và hiệu quả, giáo viên phải tham khảo ý kiến đánh giá của ban giám hiệu và tổ trưởng chuyên môn trước khi đưa vào thực hiện.
- Tăng cường tổ chức hội thảo, giao lưu về dạy học
- Rèn nề nếp học tập cho học sinh
- Tăng cường, vận động thêm sự hợp tác của cha mẹ học sinh:
+ Cha mẹ học sinh là một trong những lực lượng gián tiếp tác động đến chất lượng học tập của học sinh. Cha mẹ không quan tâm, nhắc nhở con em trong học tập, đều có tác động đến các em. Vì vậy, nhà trường, giáo viên và cha mẹ học sinh cần tăng cường sự hợp tác chặt chẽ với nhau.
+ Tạo sự đồng thuận, ủng hộ của cha mẹ học sinh trong quá trình dạy học
+ Tăng cường sự hỗ trợ tích cực của cha mẹ học sinh trong hướng dẫn học sinh tự học tại nhà.
+ Hạn chế tỉ lệ học sinh nghỉ học.
7.7. Kết luận và kiến nghị
Sau một thời gian áp dụng vào quá trình giảng dạy môn toán ở lớp 3, qua các lần kiểm tra, đề tài đã thu được một số kết quả nhất định. Học sinh có những chuyển biến rõ rệt trong việc học môn Toán của chương trình lớp Ba. Nhờ đó, bản thân tôi cũng đúc rút được cho mình một số bài học kinh nghiệm như sau:
1. Trước hết, giáo viên phải luôn có lòng yêu nghề, yêu học sinh, có ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học tập, trau dồi và mạnh dạn áp dụng những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy.
2. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của người giáo viên là phải nắm vững từng đối tượng học sinh, hiểu rõ khả năng nhận thức, hoàn cảnh và sở thích của mỗi em cũng như tâm sinh lí lứa tuổi học sinh. Chỉ khi phân loại được học sinh thành từng nhóm đối tượng( dạy học phân hóa), người giáo viên mới có thể áp dụng những pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh, với từng cá thể học sinh.
3. Ngoài ra, mỗi giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu tài liệu, dự giờ thăm lớp của các đồng nghiệp, tham dự đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn do cấp trên tổ chức … để nắm bắt những thông tin, những thay đổi về nội dung, phương pháp của từng môn học. Từ đó, giáo viên mới có thể thiết lập kế hoạch dạy học và đưa ra kế hoạch bài học một cách khoa học, có sự tích hợp giữa kiến thức các môn học và các lớp học với nhau.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy việc viết sáng kiến kinh nghiệm là rất cần thiết vì nó đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho giáo viên và học sinh.
Đối với các đồng nghiệp tôi mong rằng từ các kinh nghiệm thầy cô đã tích lũy được hãy đúc rút viết thành một sáng kiến về một lĩnh vực nào đó để đồng nghiệp góp ý hoàn thiện và phổ biến rộng rãi để các giáo viên khác cùng nhau học tập.
Về phía nhà trường ngoài việc công bố các sáng kiến có chất lượng để giáo viên trong trường học hỏi thì cần quan tâm hơn nữa đến công tác viết sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên hơn.
8. Những thông tin cần được bảo mật
Không có thông tin cần bảo mật.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
9.1. Đối với nhà trường:
- Phân công giáo viên đứng lớp một cách hợp lí.
- Tuyên truyền cho PHHS để tạo sự đồng thuận về việc dạy học.Tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh đi học đầy đủ, hạn chế việc nghỉ học thường xuyên và nghỉ trong thời gian dài.
9.2. Đối với giáo viên:
- Thực hiện giảng dạy theo đúng quy trình
- Trước khi dạy cần phải nghiên cứu kĩ thiết kế, nắm chắc cấu trúc, mục tiêu từng bài để có phương pháp, kế hoạch dạy linh hoạt phù hợp với từng đối tượng HS. Dạy chắc chắn, hướng dẫn tỉ mỉ, đảm bảo HS học đâu chắc đấy, HS đạt được yêu cầu mới chuyển sang dạy bài khác
10. Đánh giá lợi ích thu được được của sáng kiến
10.1. Đánh giá kết quả do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
Sáng kiến kinh nghiệm “ Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 trong trường Tiểu học ”phù hợp với lý luận về giáo dục, phù hợp với chủ trương, chính sách hiện hành về giáo dục và đào tạo của Nhà nước. Sáng kiến kinh nghiệm này đã được áp dụng thử nghiệm trong điều kiện cụ thể tại trường Tiểu học và mang lại lợi ích thiết thực; Ngoài ra Sáng kiến kinh nghiệm này còn có khả năng áp dụng cho tất cả các trường Tiểu học.
10.2. Đánh giá kết quả do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của trường Tiểu học
Sáng kiến kinh nghiệm này sau khi áp dụng được Ban giám hiệu, Hội đồng sư phạm trường Tiểu học Chấn Hưng đánh giá cao ở các tiêu chí sau:
- Sáng kiến có tính khả thi cao và có thể áp dụng rộng rãi ở các trường Tiểu học trong huyện.
- Sáng kiến mang lại hiệu quả cao về tính giáo dục theo hướng phát triển năng lực tư duy học sinh.
- Sáng kiến mang lại lợi ích thiết thực về nguồn lực con người góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong tương lai.
- Sáng kiến đã phát huy được tính tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh trong học tập và trong cuộc sống.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu
TT | Tên tổ chức, cá nhân | Địa chỉ | Phạm vi, lĩnh vực áp dụng sáng kiến |
1 | Học sinh khối 3 năm học 2019-2020 | Trường Tiểu học Chấn Hưng | Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 trong trường Tiểu học |
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi qua thực tế giảng dạy. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do điều kiện nghiên cứu, thời gian và phạm vi có hạn, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý của các thầy, cô trong Hội đồng khoa học nhà trường cũng như sự đóng góp của các bạn đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn và ứng dụng thực tế có hiệu quả.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/