1) TÊN ĐỀ TÀI: VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH YẾU HỌC VỮNG TOÁN 6
2) ĐẶT VẤN ĐỀ:
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHÚ Ý HỌC SINH YẾU KÉM TRONG VIỆC CẢI THIỆN PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TOÁN 6
Qua nhiều năm giảng dạy Toán lớp 6, bản thântôi thu được kết quả như sau :
- 25% học sinh / 1 lớp tiếp thu rất tốt phương pháp dạy mới .
- 35% học sinh / 1 lớp theo kịp cách giảng dạy mới .
- 30% học sinh / 1 lớp trung bình đang cố vươn lên .
- 10% học sinh yếu còn lại không theo kịp cách giảng dạy mới .
Trong 10% học sinh yếu còn lại , học sinh chưa qua chương trình thực nghiệm ở bậc tiểu học chiếm đa số . Việc thay sách giáo khoa ở bậc tiểu học không đáp ứng yêu cầu vì sự phát triển của xã hội , do sự thay sách không đồng bộ ở các cấp học làm sự tiếp thu bài của học sinh trên một lớp chênh lệch . Để đáp ứng nội dung học tập theo sách giáo khoa , việc giúp học sinh yếu kém học vững kiến thức trọng tâm từng bài , từng chương là việc làm cần thiết .
II. ĐIỂM LẠI TÌNH HÌNH HỌC TOÁN CHÍNH KHÓA CỦA HỌC SINH YẾU VÀ KÉM TRONG CÁC NĂM HỌC TRƯỚC
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Thực trạng :
a) Học sinh yếu chưa biết quan sát , tư duy theo cách đặt vấn đề của giáo viên để phát hiện và xây dựng kiến thức mới .
b) Học sinh yếu chưa biết cách học nhớ và hiểu , chưa biết tự đối thoại lẫn nhau , không mạnh dạn tham gia bài học , chưa nhạy bén trong các bài hỏi đáp nhanh , các bài tập trắc nghiệm củng cố .Rất lúng túng trong dạng bài tập điền từ , điền số , sửa chữa chỗ sai hoặc vẽ hình theo yêu cầu đề cho sẵn hoặc rèn kĩ năng trong các bài tập tính nhanh .
c) Học sinh yếu không nắm được phương pháp học lí thuyết , một số học sinh có học bài nhưng nắm khái niệm , tính chất toán học một cách qua loa , thiếu chính xác . Bài tập về nhà thường chép của bạn hoặc chép ở sách giải để đối phó việc kiểm tra của giáo viên .
d) Đồ dùng học tập như SGK , máy tính bỏ túi , giấy trong , bút ,… chuẩn bị không đầy đủ .
3) CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Việc từng bước cải tiến phương pháp dạy của giáo viên cũng làm đổi mới cách học của học sinh . Trình độ của học sinh lại không đồng đều , cách học mới đòi hỏi học sinh phải nắm vững lí thuyết hơn , bài tập rèn kĩ năng được luyện tập nhiều hơn trong một tiết học , bài tập về nhà phải được chuẩn bị chu đáo hơn . Mà điểm này ở học sinh yếu kém toán chưa thực hiện được .
4) CƠ SỞ THỰC TIỄN
1) Học sinh choáng ngợp với nội dung SGK ở lớp 6 (bậc THCS) : Học tất cả các môn (thay mới 10 môn) . Học sinh choáng ngợp với cách dạy mới : 1GV/ 1 môn học . Với yêu cầu cải tiến phương pháp giảng dạy kèm theo từng đặc điểm của từng môn học khác nhau đến sự phong phú đa dạng trong phương pháp giảng dạy mà mỗi giáo viên đứng lớp đang áp dụng , khác với cách dạy , cách học một thầy (hoặc một cô) ở tiểu học mà học sinh đã quen học trong 5 năm .
2) Sự chuẩn bị bài học , bài tập ở nhà của học sinh yếu kém luôn thiếu sót . Một vài học sinh do mất cơ bản nên thiếu cố gắng trong học tập , một số phụ huynh (do hoàn cảnh gia đình có nhiều đặc biệt) lại khoán trắng con mình cho giáo viên . Sự thiếu quan tâm của phụ huynh kèm theo sự lười học của học sinh góp phần khó khăn thêm cho giáo viên bộ môn trong việc đẩy mạnh chất lượng đại trà .
3) Các hoạt động ngoài giờ ở bậc THCS đa dạng hơn , đòi hỏi học sinh phải năng nổ học tập , trong các phong trào thi đua ở lớp , mà học sinh yếu kém rất mất thời gian và chậm chạp trong các hoạt động này .
5) NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
A. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC :
Tạm chia thành hai loại :
- Biện pháp chính dành cho giáo viên bộ môn .
- Biện pháp hỗ trợ dành cho giáo viên bộ môn kiêm GVCN .
1. BIỆN PHÁP CHÍNH (dành cho giáo viên bộ môn) : Gồm có 4 biện pháp .
1- Biện pháp 1: Giảng dạy theo cách đặt vấn đề bằng phương pháp trực quan .
Dùng các câu hỏi đặt vấn đề khơi dậy tính tò mò của học sinh , hay cho học sinh quan sát hình ảnh , gấp (ghép) hình , làm bài tập điền từ , điền số vào chỗ trống (…) để dẫn dắt học sinh phát hiện và xây dựng kiến thức mới . Các bài tập thường được viết trên bảng phụ .
2- Biện pháp 2 :Gây sự tập trung và hứng thú học toán của học sinh bằng phương pháp trắc nghiệm .
Học sinh yếu toán ít tập trung suốt tiết học . Để học sinh yếu nắm được bài , giáo viên phải có hệ thống câu hỏi và bài tập phù hợp gây hứng thú cho học sinh . Sau khi hình thành khái niệm , tính chất toán học , tôi đã áp dụng câu hỏi hoặc bài tập trắc nghiệm trên bảng phụ , trên phiếu học tập hoặc xen kẽ đố vui toán học , điều này giúp học sinh yếu nắm vững từng đơn vị kiến thức , khắc sâu khái niệm , tính chất toán học mà giáo viên cần truyền đạt .
3- Biện pháp 3 : Khâu tổ chức lớp học .
Chia học sinh lớp thành hai nhóm (chẵn , lẻ /bàn) , thường học sinh yếu (nhóm lẻ) ngồi cạnh học sinh khá giỏi (nhóm chẵn) để phục vụ việc thảo luận .
4- Biện pháp 4: Sau mỗi bài học , giáo viên phát cho học sinh yếu , kém lượng bài tập phù hợp , có thể là những bài giải nửa chừng , học sinh về nhà làm tiếp . Biện pháp này rất cần thiết vì nó kích thích tính tự học của học sinh , bài tập này không quá khó lại có hướng dẫn nên học sinh hứng thú làm bài tập dạng này ở nhà .
2 . BIỆN PHÁP HỖ TRỢ (dành cho giáo viên bộ môn kiêm GVCN) :
Ngoài các biện pháp chính , khi đứng lớp chủ nhiệm tôi còn áp dụng :
1- Biện pháp 1 : Phát huy tính tự quản của đội học sinh giỏi toán trong lớp .
Được lợi thế ở 15 phút đầu buổi và tiết sinh hoạt , vừa giảng dạy kết hợp công tác chủ nhiệm tôi đã tập huấn cho học sinh giỏi toán biết cách làm việc trong 15 phút : truy bài , soạn nội dung đố vui ôn tập toán vào giờ sinh hoạt lớp ( 1 lần / tháng ) , hoặc ngoại khóa … , được cùng nhau vui và học , học sinh yếu giải bài tập về nhà đầy đủ , chất lượng , tự tin trong học tập .
2- Biện pháp 2 :Khai thác tốt sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh và sức mạnh tập thể của liên đội trường .
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
- Đa số các phụ huynh đều quan tâm đến việc học tập của con em mình . Do đó tôi thường yêu cầu phụ huynh kiểm tra việc chuẩn bị bài học , bài tập ở nhà , quản lí chặt chẽ giờ giải bài tập , chăm lo sức khỏe và luôn thông tin hai chiều kịp thời với GVCN .
- Nhờ ban phân hội phụ huynh thường xuyên thăm lớp , dự giờ đố vui ôn tập , ngoại khóa định kì để phát thưởng động viên phong trào của lớp cũng như thăm hỏi những gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt , những học sinh có hiện tượng bỏ học , chay lười trong học tập .
- Liên kết chặt chẽ ban chỉ huy Liên đội trường ( thông qua TPT đội ) khen thưởng hoặc nhắc nhở kịp thời thái độ học tập của học sinh yếu kém qua hình thức thi đua hằng tuần và tiết chào cờ đầu tuần .
B. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ :
1. Biện pháp 1 : Giảng dạy theo cách đặt vấn đề bằng phương pháp trực quan .
1 - Đối với lí thuyết hình học :
Tôi thường áp dụng biện pháp trực quan suy luận bằng các bước :
Quan sát bằng hình vẽ và gấp giấy , dự đoán , đo đạc , điền vào chỗ trống , nhận xét kết quả .
Ví dụ : Để cho học sinh nắm được định nghĩa và tính chất trung điểm một đoạn thẳng , giáo viên cho học sinh bài tập ở nhà :
- Vẽ đoạn thẳng AB = 10cm trên giấy nháp (giấy mờ) .
- Gấp giấy sao cho điểm B trùng với điểm A .
- Nếp vừa gấp có chia đôi đoạn AB không ?
- Hãy kiểm tra lại hai độ dài đó bằng thước .
- Đánh dấu tại nếp vừa gấp là điểm M rồi điền tên đoạn thẳng vào chỗ trống :
MA + MB = … 5cm + … = 10cm
MB = …
MB = 5cm hay MA = MB =… : 2 = 5cm
Hiệu quả :
- Học sinh chuẩn bị kĩ bài tập ở nhà , cách đặt vấn đề của giáo viên vào bài mới ít tốn thời gian mà vẫn dẫn dắt học sinh yếu nắm được trọng tâm bài .
- Các em được vẽ và ghép hình , điền vào chỗ trống được luyện tập ngôn ngữ theo nội dung bảng phụ , khả năng quan sát , dự đoán , theo kịp lượng kiến thức giáo viên cần truyền đạt , cách học hiểu và nhớ ở học sinh yếu được hình thành .
2 – Đối với tiết luyện tập và ôn tập :
- Tôi thường đặt vấn đề dưới một hệ thống bảng phụ trực quan , do học sinh yếu nên tư duy chậm , các em thường sai lầm trong từng bước giải nên tôi thường đặt vấn với mục đích sai để nhớ .
Bảng phụ 1 : Nội dung bài có sai lầm về kiến thức (dạy bài tập về ví dụ )
Bảng phụ 2 : Nội dung bài có sai lầm ở kiến thức cũ hoặc trình bày có sai lỗi chính tả toán học .
Bảng phụ 3 : Bài tập được trình bày đúng hoàn toàn .
Ví dụ :
Tìm x N ; biết 12 – 8 : x = 4 ( cho học sinh quan sát bảng phụ )
Giáo viên đặt vấn đề : Cách giải sau đây đúng hay sai ? Vì sao ?
Bảng phụ 1
Tìm x N ; biết : 12 – 8 : x = 4 4 : x = 4 x = 1 | Dự kiến sai lầm của HS - Học sinh yếu quen áp dụng thứ tự các phép tính làm từ trái sang phải . - Học sinh thử lại thấy x = 1 đúng với bài tập trên nên chắc chắn rằng bài làm đúng . |
Sau khi học sinh quan sát , nhận xét dạng bài , phát hiện sai sót , giáo viên chốt lại các bước sai cho học sinh yếu không vấp phải .
Bảng phụ 2 : Cách giải của An đúng hay sai ?
12 – 8 : x =4 8 : x = 4 + 12 8 : x = 16 x = 16 : 8 x = 2 | Dự kiến sai lầm của HS - Học sinh yếu chưa nhận biết x là số gì cần tìm |
Giáo viên tiếp tục sửa bảng phụ 2
Với phương pháp giảng dạy như trên GV chấm bài làm của một học sinh khá giỏi .
Cuối cùng cho học sinh quan sát bảng phụ 3 : Đúng hoàn toàn để các em nắm được cách trình bày 1 bài tập dạng tìm x ( Dạng này rất hay gặp trong chương trình toán 6 )
Bảng phụ 3 :
12 – 8 : x = 4 8 : x = 12 – 4 8 : x = 8 x = 8 : 8 x = 1 | Mục đích củng cố - Từng dòng ở bài , để tìm kết quả mà em đã vận dụng kiến thức nào ? - HS tự rút ra kiến thức cần ôn - HS tự so sánh , biết tự sửa chữa sai sót của mình . |
Hiệu quả :
- Học sinh lấp được những “ lỗ hổng” trong từng bước làm , thấy được sai lầm của mình trong từng bước giải , được nhận xét lẫn nhau . Do đó hiểu rõ và nhớ lâu những dạng bài trọng tâm .
- Học sinh kém tự thấy mình thiếu sót phần lí thuyết nào , sai lầm ở từng bước nào cũng tự điều chỉnh cách học của mình và do đó sẽ có hiệu quả hơn ở bài tập tương tự .
II / Biện pháp 2 và 3 : Khâu tổ chức lớp học , gây sự tập trung và hứng thú học toán của học sinh yếu kém .
Để học sinh yếu kém nắm vững trọng tâm bài , tôi đã củng cố từng đơn vị kiến thức bằng 3 cách :
. Cách 1 : Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm .
. Cách 2 : Phiếu học tập .
. Cách 3 : Thi giải đáp nhanh ( theo nhóm )
Ví dụ : giảng dạy khái niệm hai góc kề nhau tôi đã tiến hành :
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/